Du lịch

“Mỏ vàng” của du lịch miền Trung: Hành trình tìm lại “hào quang” của di sản

Đà Nẵng

Quần thể di tích cố đô Huế (thành phố Huế), phố cổ Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn (thành phố Đà Nẵng) đều là những di sản văn hóa với hành trình dài từ chỗ bị lãng quên, đổ nát đến quá trình hồi sinh, tỏa sáng mạnh mẽ.

Dải đất miền Trung là nơi chứa đựng nhiều trầm tích văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam, trong đó thành phố Huế và Đà Nẵng đang sở hữu ba Di sản Văn hóa thế giới tiêu biểu đã được UNESCO vinh danh gồm Quần thể di tích cố đô Huế - kinh đô của triều Nguyễn kéo dài 143 năm (1802 - 1945), Phố cổ Hội An - Thương cảng quốc tế sầm uất có từ thế kỷ XVI và Khu đền tháp Mỹ Sơn - Thung lũng thờ các vị thần của nhiều triều đại Chămpa cổ. Những di sản văn hóa này đã có một hành trình dài từ chỗ bị lãng quên, đổ nát đến quá trình hồi sinh, tỏa sáng mạnh mẽ. Để làm rõ hơn về quá trình này, phóng viên TTXVN thực hiện chùm ba bài viết về chủ đề: “Mỏ vàng” của du lịch miền Trung.

Bài 1: Hành trình tìm lại “hào quang” của di sản

Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế Hoàng Việt Trung phát biểu tại Lễ Công bố Năm du lịch quốc gia và Festival Huế 2025. 
Ảnh: Mai Trang - TTXVN

Cách đây hơn 30 năm, Quần thể di tích cố đô Huế (thành phố Huế), phố cổ Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn (thành phố Đà Nẵng) đều là những điểm di tích dường như bị “lãng quên” theo thời gian và có nguy cơ trở thành phế tích, nguồn lực dành cho công tác trùng tu, tôn tạo và bảo vệ hết sức khó khăn, hạn chế. Dấu mốc quan trọng làm hồi sinh các di tích này là khi được Tổ chức UNESCO vinh danh là Di sản Văn hóa thế giới vào các năm 1993 và 1999. Từ đó đến nay, những di sản mang tầm vóc nhân loại này khoác trên mình một diện mạo mới, hồi sinh mạnh mẽ.

*Vượt qua ranh giới phế tích

Du khách vào tham quan Quần thể di tích Cố đô Huế trong dịp đầu năm mới 2025
Ảnh: Mai Trang - TTXVN

Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế hiện lưu giữ nhiều bức ảnh tư liệu về các địa điểm di tích cách đây hàng chục năm, cho thấy sự xuống cấp trầm trọng, hoang tàn, nhiều khu vực trở thành phế tích. Sau chiến tranh, nhiều công trình kiến trúc độc đáo trong khu vực Tử Cấm Thành bị bom đạn phá hủy. Khu vực Hoàng thành chỉ còn lại 62 công trình so với hơn 130 công trình kiến trúc ban đầu. Khu vực Kinh thành chỉ còn 97 công trình nhưng cũng trong tình trạng hư hỏng nặng, nhiều dấu vết đạn vẫn còn hằn sâu trên những tấm bia, Cửu đỉnh đến tận ngày nay. Bên cạnh đó, hằng năm, cố đô Huế còn thường xuyên chịu tác động tiêu cực bởi thời tiết bất thường, trong đó các trận lũ năm 1953, trận bão năm 1985, trận lũ lịch sử năm 1999… đã hủy hoại các di tích có lịch sử hàng trăm năm tuổi.

Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế Hoàng Việt Trung cho rằng, nhà Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam đã để lại cho hậu thế hệ thống quần thể di tích đồ sộ với thành quách, cung điện, lăng tẩm, phủ đệ… Tuy nhiên, sự tàn phá của chiến tranh và thời tiết khắc nghiệt đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quần thể di sản này. Kinh thành Huế từng là tọa độ hứng chịu nhiều bom đạn, nhiều khu vực, công trình kiến trúc đã bị xóa sổ. Những công trình kiến trúc còn lại sau chiến tranh đều bị xuống cấp, hư hỏng, dột nát với các mức độ khác nhau, cảnh quan các khu di sản trong tình trạng hoang hóa, cây cỏ xâm thực. Ngay sau ngày đất nước thống nhất, nguồn lực đầu tư cho công tác bảo tồn di sản hạn chế, khiến di sản Huế phải đối mặt với muôn vàn thách thức và đứng trước nguy cơ sụp đổ.

Kiến trúc Chămpa ở Mỹ Sơn. 
Ảnh: Đỗ Trưởng - TTXVN

Ngược lên phía thượng nguồn sông Thu Bồn (Đà Nẵng), khu đền tháp Mỹ Sơn được hình thành từ cuối thế kỷ IV dưới vương triều Bhadravarman I để thờ thần Shiva và trở thành trung tâm tôn giáo tín ngưỡng quan trọng nhất của nhiều vương triều Chămpa cổ kéo dài qua 9 thế kỷ (từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIII) với hệ thống đền tháp Ấn Độ giáo đồ sộ. Tuy nhiên, từ thế kỷ XIII trở đi khi kinh đô của người Chăm được di chuyển vào phía Nam, Mỹ Sơn dần mất đi vai trò trung tâm và bị lãng quên. Vào thế kỷ XIX, người Pháp đã phát hiện ra khu đền tháp, bắt đầu nghiên cứu về văn bia, đến đầu thế kỷ XX tổ chức khai quật khảo cổ. Kết quả của quá trình trên đã làm xuất lộ 72 tháp, đền thờ và kiến trúc phụ thuộc khác được các nhà nghiên cứu Pháp chia thành 13 khu tháp theo ký tự A,B,C,D…N. Đến năm 1969, đế quốc Mỹ đã thả bom tàn phá, làm nhiều đền tháp bị phá hủy, hư hại nghiêm trọng, trong đó có tháp A1 cao 24m được xem là kiệt tác trong kiến trúc Chămpa ở Mỹ Sơn. Hiện nay, toàn bộ di tích chỉ còn khoảng 20 đền tháp trong tình trạng không còn nguyên vẹn. Vào đầu những năm 1980, khu đền tháp Mỹ Sơn cũng từng đứng trước thời khắc lịch sử có thể bị nhấn chìm dưới nước khi địa phương có kế hoạch thực hiện dự án chặn dòng, ngăn đập, xây dựng hồ chứa nước thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp nhưng may mắn dự án này sau đó bị dừng lại.

Xuôi về khu vực cửa biển Cửa Đại, phố cổ Hội An được hình thành và phát triển từ thế kỷ XVI, từng là một trong những thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực Đông Nam Á. Từ thế kỷ XVI, các thương nhân từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Ấn Độ và Tây Ban Nha đã đến đây giao thương hàng hóa. Chính vì vậy, những công trình kiến trúc và giá trị văn hóa của phổ cổ Hội An được hội tụ từ nhiều nền văn hóa Đông - Tây. Sau ngày đất nước giải phóng năm 1975, khu đô thị cổ Hội An được bảo tồn khá nguyên vẹn với hơn 1.100 di tích kiến trúc, gồm nhà ở, cầu, giếng, chợ, công trình tín ngưỡng đình, chùa, lăng, miếu, hội quán, nhà thờ tộc. Tuy nhiên, phố cổ Hội An đã trải qua một giai đoạn bị lãng quên, bị định kiến, nghi ngờ về giá trị và có thời điểm nhiều công trình tín ngưỡng đứng trước nguy cơ bị phá hủy với lý do bài trừ văn hóa phong kiến… May mắn vào thời điểm đó nhờ tầm nhìn của người đứng đầu địa phương là ông Hồ Nghinh, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng lúc bấy giờ, đã kịp thời ngăn chặn, giữ lại một Hội An cổ kính khỏi sự tác động phá hủy trên diện rộng, để từ đó những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của phố hội này dần dần được nhìn nhận và đánh thức trở thành di sản của nhân loại sau này.

*Hình mẫu về bảo tồn di sản

Du khách chụp ảnh bên chùa Cầu ở phố cổ Hội An.
Ảnh: Đỗ Trưởng - TTXVN

Vượt qua muôn vàn thử thách của thời gian và lịch sử, ba di sản thế giới này đã chuyển từ giai đoạn “cứu nguy khẩn cấp” bước sang giai đoạn phát triển ổn định, được quốc tế đánh giá cao, xem là hình mẫu trong tác bảo tồn di sản trên thế giới hiện nay.

Ngay từ khi được công nhận là Di sản thế giới năm 1999, nhiều chương trình bảo tồn quy mô lớn đã được thực hiện tại phố cổ Hội An. Theo thống kê, từ năm 2008 đến nay, hơn 400 di tích đã được tu bổ với kinh phí khoảng 150 tỷ đồng, bao gồm cả nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và sự đóng góp của cộng đồng. Qua đó, hàng trăm công trình kiến trúc cổ đã thoát khỏi nguy cơ sụp đổ, bảo toàn diện mạo qua nhiều thế hệ. Thành phố Đà Nẵng đang hướng tới mục tiêu, đến năm 2030 là hoàn thành 100% công tác tu bổ các di tích xuống cấp, lập hồ sơ khoa học đầy đủ cho tất cả di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Đến năm 2035, Hội An mở rộng vùng bảo vệ di sản, bảo đảm tính toàn vẹn và giá trị nổi bật toàn cầu của đô thị cổ.

Phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di sản văn hóa thế giới Hội An Phạm Phú Ngọc cho biết, phần lớn những ngôi nhà cổ ở Hội An có tuổi thọ hàng trăm năm, thuộc sở hữu của tư nhân, tập thể. Quá trình thực hiện, các cơ quan chức năng đã phân loại những công trình xuống cấp, cần trùng tu theo cấp độ cấp thiết và thực hiện hỗ trợ từ 40%-75% kinh phí. Trung tâm Bảo tồn di sản văn hóa thế giới Hội An là đơn vị đứng ra lập phương án và trực tiếp thực hiện trùng tu, đảm bảo đúng theo những nguyên tắc bảo tồn di tích và nhận được sự đồng tình cao của người dân.

Giáo sư, Tiến sĩ, kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính nhận định, đô thị di sản Hội An đang được bảo tồn nguyên vẹn, chắc chắn và phát triển tiếp nối hữu cơ, mở ra triển vọng xây dựng Hội An ở thế kỷ XXI thành một đô thị lịch sử - sinh thái, có vị trí rất riêng trong hệ thống các đô thị Việt Nam.

Theo đánh giá của các chuyên gia, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Huế đã chuyển sang giai đoạn ổn định và phát triển bền vững. Địa phương hiện được UNESCO đánh giá đi đầu về bảo tồn, phát huy giá trị di sản, có khả năng xây dựng thành một trung tâm chuẩn mực về chuyển giao công nghệ bảo tồn tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Quần thể di tích cố đô Huế là Di sản Văn hóa thế giới đầu tiên của Việt Nam được UNESCO vinh danh vào năm 1993. Một sự kiện đáng chú ý đánh dấu bước ngoặt đối với việc nhìn nhận giá trị di sản và khởi đầu cho quá trình trùng tu, hồi sinh di sản này vào năm 1981, Tổng Giám đốc UNESCO vào thời điểm đó - ông Amadou Mahtar M’Bow đã ra Lời kêu gọi cứu vãn di sản văn hóa Huế. Ông Amadou Mahtar M’Bow nhấn mạnh, di sản Huế đang ở trong tình trạng lâm nguy, đứng bên vực của sự diệt vong và quên lãng. Chỉ có sự cứu nguy khẩn cấp với nỗ lực của Chính phủ Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế mới có thể giúp cố đô Huế thoát ra khỏi tình trạng trên.

Sau lời kêu gọi đó, một cuộc vận động quốc tế hỗ trợ cố đô Huế đã được triển khai mạnh mẽ. Những giá trị tiêu biểu, nổi bật của những di sản triều Nguyễn đã được nhìn nhận và đánh giá đúng với tầm vóc vốn có. Từ đó, nhận thức về các di sản của triều đại này từng bước thay đổi theo hướng tích cực.

Sau hơn 30 năm, kể từ khi Quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới, trong lĩnh vực bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể đã có gần 200 công trình và hạng mục công trình được tu bổ, phục hồi, tôn tạo. Từ năm 2019 đến nay, thành phố Huế thực hiện Dự án “Di dời dân cư, giải phóng mặt bằng khu vực I di tích Kinh thành Huế”, với hàng ngàn hộ dân được di dời đến nơi ở mới, trả lại mặt bằng cho di tích.

Khu đền tháp Mỹ Sơn đều có vai trò, dấu ấn quan trọng của kiến trúc sư người Ba Lan Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997)
Ảnh: Đỗ Trưởng - TTXVN

Trong quá trình hồi sinh và trở thành Di sản Văn hóa thế giới của cố đô Huế, phố cổ Hội An và khu đền tháp Mỹ Sơn đều có vai trò, dấu ấn quan trọng của kiến trúc sư người Ba Lan Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997), tên thường được gọi là Kazik. Trên đường Trần Phú ở phố cổ Hội An hiện có một công viên nhỏ đặt bức tượng bán thân của kiến trúc sư Kazik nhằm tưởng nhớ và ghi nhận công lao to lớn của ông đối với di sản văn hóa của Hội An nói riêng và Việt Nam nói chung.

Từ đầu thập niên 1980, ông Kazik đã qua Việt Nam trong chương trình hợp tác giữa Chính phủ hai nước về giúp Việt Nam trong nghiên cứu, trùng tu những tháp Chăm cổ tại Mỹ Sơn. Sau đó, ông Kazik đã tiếp xúc và nhận ra giá trị nổi bật toàn cầu của phố cổ Hội An, Quần thể di tích cố đô Huế và nỗ lực vận động chính quyền địa phương bảo tồn, giữ gìn các di tích kiến trúc độc đáo tại đây, đồng thời không ngừng nỗ lực giới thiệu, quảng bá ra thế giới.

Trưởng phòng Bảo tồn - Bảo tàng (Ban Quản lý di sản văn hóa thế giới Mỹ Sơn) Nguyễn Văn Thọ cho biết, kiến trúc sư Kazik cùng với đồng nghiệp đã có công lớn trong việc khôi phục diện mạo khu đền tháp Mỹ Sơn từ đống đổ nát, gia cố các tháp cổ khỏi tình trạng bị đổ sụp, đặt nền tảng cho các giai đoạn trùng tu sau này. Kiến trúc sư Kazik tuân thủ nghiêm ngặt trường phái trùng tu khảo cổ học, đó là giữ gìn nguyên vẹn di tích gốc, các thành phần gốc, không làm sai lệch, làm giả di tích, chủ yếu sử dụng biện pháp gia cố kỹ thuật để duy trì hiện trạng, chỉ phục dựng từng phần nếu có cơ sở khoa học, không chủ trương phục nguyên, không làm lẫn cái gốc và cái mới đưa vào để gia cường.

Giai đoạn 1997 đến năm 2022, việc nghiên cứu, bảo tồn và trùng tu di tích Mỹ Sơn đã đạt được nhiều thành tựu mới nhờ vào các chương trình hợp tác giữa Việt Nam với Italia và Ấn Độ trong việc trùng tu nhóm tháp G, H, K, A. Hiện, phía Ấn Độ đang tiếp tục hỗ trợ trùng tu nhóm tháp E, F trong giai đoạn 2025-2030./.(còn tiếp)

Đỗ Văn Trưởng

Tin liên quan

Xem thêm