Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Thắng lợi ấy cũng minh chứng cho bản lĩnh và trí tuệ của Ðảng - đã lựa chọn đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn với tầm nhìn chiến lược, sự nhạy bén, nắm bắt và chớp đúng thời cơ để khởi nghĩa thành công.
* Đảng lãnh đạo Nhân dân chuẩn bị mọi mặt
- Chuẩn bị đầu tiên về tổ chức chính trị
Sau nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ sở đó tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc. Năm 1924, Người từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc), lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, quy tụ những thanh niên-trí thức yêu nước ưu tú, mở nhiều lớp huấn luyện để đào tạo họ thành một lớp cán bộ tài năng.
Ngày 3/2/1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Điểm thứ nhất trong “Năm điểm lớn” được Người đưa ra trong Cương lĩnh đầu tiên là: “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. (1)
Sự ra đời của Đảng Cộng sản là một bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam, tạo ra nhân tố hạt nhân quy tụ sức mạnh đoàn kết dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đây là tiền đề quan trọng nhất cho những bước phát triển tiếp theo và cho mọi thắng lợi của dân tộc sau này, trong đó có mốc son chói lọi đầu tiên là tiến hành thành công Cách mạnh Tháng Tám.
- Đề ra đường lối cách mạng đúng đắn
Tại Hội nghị thành lập Đảng, Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” (2).
Sau đó, đường lối chiến lược và sách lược của Đảng đã không ngừng được bổ sung, phát triển cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, thể hiện rõ qua các Hội nghị Trung ương Ðảng tháng 11/1939 và tháng 11/1940, nhất là Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941). Dù ở giai đoạn nào, Đảng luôn đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 chỉ rõ “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Ðông Dương không có con đường nào khác hơn là đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập” (3). Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) nhấn mạnh: “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Ðảng ta”. (4)
Nêu rõ phương pháp cách mạng là khởi nghĩa vũ trang “Cuộc cách mạng Ðông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang” (5), Đảng ta chủ chương phải chuẩn bị thật tốt lực lượng, để “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”. (6)
Ngày 9/3/1945 phát-xít Nhật đảo chính gạt bỏ thực dân Pháp để độc chiếm Ðông Dương. Trước diễn biến này, ngày 12/3/1945, Thường vụ Trung ương Ðảng đã kịp thời ra bản chỉ thị lịch sử: “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị nêu rõ kẻ thù lúc này của cách mạng là phát-xít Nhật. Do đó, Ðảng ta đã phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Theo đó, phải thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho phù hợp; sẵn sàng chuyển sang Tổng khởi nghĩa.
- Xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng
Trên thực tế, việc xây dựng lực lượng cách mạng đã được tiến hành từ rất sớm. Ngay từ khi mới ra đời, với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ lực lượng và sức mạnh của cả dân tộc, làm nên một cao trào cách mạng rộng lớn trong phạm vi cả nước, huy động đông đảo quần chúng tham gia, với những hình thức đấu tranh phong phú, đa dạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân đã tiến hành cao trào cách mạng 1930-1931, cao trào dân chủ 1936-1939 và cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945. Trong suốt thời gian đó, Đảng ta đã ra sức xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng chuẩn bị điều kiện cho Tổng khởi nghĩa.
Đến năm 1941, Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) đã chủ trương tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc, nhằm tập hợp tất cả mọi giai cấp, mọi tầng lớp, mọi đảng phái, mọi thành phần dân tộc, mọi cá nhân, tất cả những ai có tinh thần cách mạng, yêu nước, đấu tranh chống đế quốc Pháp, phát-xít Nhật cùng bè lũ tay sai. Tại Hội nghị, Đảng ta đã thành lập Mặt trận Việt Minh, quy tụ mọi giai cấp, tầng lớp cùng đoàn kết lại thông qua các hội: Nông dân cứu quốc, công nhân cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, nhi đồng cứu quốc... tạo thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc rộng rãi, vững chắc. Vai trò và sức mạnh to lớn của Mặt trận Việt Minh được thể hiện rõ nét trong thực tiễn, có sức lôi cuốn hiệu triệu mạnh mẽ quần chúng đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc.
Để đáp ứng yêu cầu của cách mạng, ngày 22/12/1944, thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đội tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) được thành lập với nhiệm vụ là hoạt động vũ trang tuyên truyền, kết hợp chính trị với quân sự. Đến giữa tháng 4/1945, để đẩy nhanh việc chuẩn bị khởi nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự Bắc kỳ, thống nhất sáp nhập Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân thành Việt Nam giải phóng quân. Lực lượng cách mạng chính trị và lực lượng vũ trang không ngừng trưởng thành và lớn mạnh.
Từ năm 1940 đến năm 1945, Đảng đã tích cực chỉ đạo xây dựng và củng cố các căn cứ địa cách mạng. Chỉ trong một thời gian ngắn, ta đã xây dựng được một vùng căn cứ địa Việt Bắc rộng lớn, bao gồm hầu hết các vùng nông thôn thuộc sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, cùng nhiều chiến khu và căn cứ vũ trang khác, như: Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Yên Bái, Hải Dương, Ninh Bình, Thanh Hoá, Quảng Ngãi... Đây thực sự là những nơi trọng yếu chỉ đạo quá trình xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, là những trung tâm đầu não lãnh đạo lực lượng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc.
Như vậy, trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Nhân dân Việt Nam, nhất là quần chúng trong các tổ chức Cứu quốc, từ lâu đã quyết tâm chiến đấu, sẵn sàng hy sinh để giành độc lập.
* Chớp thời cơ khởi nghĩa và giành thắng lợi
Chớp đúng thời cơ khởi nghĩa là một vấn đề có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Nhận thức rõ tính chất quyết định, ý nghĩa chiến lược của thời cơ khởi nghĩa, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hành động kịp thời và kiên quyết trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Thời cơ của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 xuất hiện khi phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh, hàng ngũ chỉ huy của Nhật ở Đông Dương chia rẽ đến cực điểm, quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần, Việt gian thân Nhật hoảng sợ. Đồng thời, đây cũng là lúc mọi chuẩn bị của Đảng ta về lực lượng, đường lối, phương châm tác chiến đã hoàn thiện, cao trào cứu nước của toàn dân đã dâng lên tới đỉnh điểm. Các cuộc khởi nghĩa từng phần đã nổ ra và thắng lợi ở nhiều vùng. Khu giải phóng và căn cứ địa được lập ra trong cả nước, quân đội cách mạng đã được thành lập, mọi lực lượng đã sẵn sàng chiến đấu. Thời cơ cách mạng chỉ tồn tại từ khi phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Việt Nam. Đó là lúc kẻ thù cũ đã đứng im, nhưng kẻ thù mới chưa kịp đến, tạo thành tình thế so sánh lực lượng có lợi nhất cho cách mạng.
Do đó, ngày 12/8/1945, Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng ra mệnh lệnh khởi nghĩa. Ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Ngày 14 và 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng bàn kế hoạch phát động và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Hội nghị chỉ rõ: “Tình thế vô cùng khẩn cấp. Tất cả mọi việc đều phải nhằm vào ba nguyên tắc a) Tập trung-tập trung lực lượng vào những việc chính; b) Thống nhất-thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy; c) Kịp thời-kịp thời hành động, không bỏ lỡ thời cơ”. (7)
Ngày 16/8/1945, Quốc dân Ðại hội họp và ra Nghị quyết về giành chính quyền toàn quốc và thi hành mười chính sách lớn của Việt Minh; Ủy ban dân tộc giải phóng được thành lập gồm 15 ủy viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 18/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ”. (8)
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc Việt Nam nhất tề đứng dậy. Cách mạng Việt Nam nhanh chóng chuyển từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Nhờ có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng lúc, đúng thời cơ, Cách mạng Tháng Tám đã nhanh chóng giành được thắng lợi. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập và tự do.
79 năm đã trôi qua song thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị lịch sử. Trong đó, sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là bài học quý đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn có ý nghĩa sâu sắc trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hôm nay./.
Minh Duyên
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr.615
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, tập 3, tr.1
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Ðảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.536
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Ðảng toàn tập, sđd, tập 7, tr.118.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, tập 7, tr.129
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, tập 7, tr.131-132
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Ðảng toàn tập, sđd, tập 7, tr. 425
(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, tập 3, tr. 596