Ở Việt Nam, việc tích hay xả nước của hồ chứa thủy điện không hề dễ dãi và tùy tiện hay phụ thuộc vào “ý chí, lợi ích kinh doanh” của doanh nghiệp như một số người lan truyền.
Theo ông Hoàng Đức Cường, Phó Cục trưởng Cục Khí tượng Thủy văn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), trong năm 2025 Việt Nam ghi nhận diễn biến cực kỳ bất thường và dị thường của thiên tai, trong đó có lĩnh vực khí tượng thủy văn, gây thiệt hại nghiêm trọng. Tổng thiệt hại kinh tế ước tính vượt 85.000 tỷ đồng và đã có 409 người chết, mất tích tính đến cuối tháng 11/2025.
Bên cạnh sự thiệt hại chung của toàn xã hội thì ngành thủy điện cũng bị ảnh hưởng lớn bởi thiên tai và cả “nhân tai”.
Thủy điện được xem là công nghệ sản xuất điện năng sạch và có khả năng tái tạo. Ưu điểm nổi bật của thủy điện là giảm thiểu phát thải khí nhà kính, cung cấp dịch vụ quản lý năng lượng và tài nguyên nước, hỗ trợ tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo khác bằng cách cung cấp dịch vụ lưu trữ và cân bằng tải.
Hiện tại, thủy điện chiếm gần 30% trong cơ cấu nguồn điện quốc gia và giữ vai trò then chốt trong việc phủ đỉnh biểu đồ tải, dự phòng công suất, điều tiết lũ, cấp nước sinh hoạt, tưới tiêu, đồng thời thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương và phát triển du lịch.
Cụ thể, thủy điện là một trong những nguồn năng lượng chính, đáp ứng nhu cầu điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt ở các vùng khó khăn.
Thủy điện có khả năng điều chỉnh công suất nhanh chóng, giúp vận hành hệ thống điện quốc gia an toàn, tin cậy, đặc biệt khi kết hợp với các nguồn năng lượng tái tạo không ổn định như điện gió, điện mặt trời.
Thủy điện giúp đất nước giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu, nhất là khi giá năng lượng hóa thạch biến động.
Hồ chứa nước của thủy điện giúp cắt giảm lũ lụt, điều tiết dòng chảy cho hạ du, đặc biệt quan trọng trong mùa mưa bão; cung cấp nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và bảo vệ môi trường vào mùa khô.
Thủy điện có tầm quan trọng lớn đối với Việt Nam vì nước ta nằm trong vùng nhiệt đới, có lượng mưa trung bình hằng năm cao, khoảng 1.800 - 2.000mm, cùng với hơn 3.450 hệ thống sông ngòi dày đặc.
Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), về lý thuyết, tổng công suất thủy điện của nước ta vào khoảng 35.000MW, trong đó 60% tập trung tại miền Bắc, 27% phân bố ở miền Trung và 13% thuộc khu vực miền Nam. Tiềm năng kỹ thuật (tiềm năng có thể khai thác khả thi) vào khoảng 26.000MW, tương ứng với gần 970 dự án được quy hoạch, hằng năm có thể sản xuất hơn 100 tỷ kWh, trong đó nói riêng thủy điện nhỏ có tới 800 dự án, với tổng điện năng khoảng 15 - 20 tỉ kWh/năm.
Đến nay, các dự án thủy điện lớn có công suất trên 100MW hầu như đã được khai thác hết. Các dự án có vị trí thuận lợi, có chi phí đầu tư thấp cũng đã được triển khai thi công. Trong tương lai chỉ còn các dự án thủy điện công suất nhỏ.
Trong những năm qua, ngoài các dự án lớn do EVN đầu tư thì còn có các dự án nhỏ và vừa do chủ đầu tư ngoài ngành điện thực hiện. Ở các công trình thủy điện nhỏ (phần lớn được xây dựng ở miền Trung, Tây Nguyên) thì quy mô công trình thường là đập thấp, đường dẫn nhỏ, khối lượng xây dựng không lớn, không có hồ chứa hoặc hồ chứa nhỏ, không đảm đương được nhiệm vụ chống lũ cho hạ lưu.
Tuy nhiên, cứ sau mỗi trận lũ lụt lớn, các nhà máy thủy điện và đặc biệt là “ông chủ ngành điện” EVN, lại bị réo tên, quy lỗi xả lũ sai thời điểm làm cho “lũ bồi thêm lũ”, ảnh hưởng đến tính mạng và tài sản của người dân ở hạ du.
Bên cạnh những ý kiến chừng mực của các chuyên gia và những người có hiểu biết về thủy điện, nhiều lời ca thán lan tràn trên mạng xã hội mang tính quy chụp một chiều, thiếu khách quan, không có kiến thức chuyên môn và dựa trên những dữ liệu giả mạo hoặc chưa được kiểm chứng.
Thêm nữa, những người “thiếu thiện chí” với thủy điện ở nước ta còn cố tình bỏ qua yếu tố khách quan cốt lõi: Trong năm 2025 tình hình lũ lụt nghiêm trọng đã xảy ra trên diện rộng, với mực nước đỉnh lũ trên các sông vượt mốc lịch sử ở cả Bắc Bộ, Trung Bộ, cao nguyên Trung Bộ, hạ lưu sông Cửu Long. Đặc biệt, trận lũ lụt lịch sử vừa qua tại tỉnh Phú Yên cũ (nay là khu vực phía Đông của tỉnh Đắk Lắk) là một phần của đợt thiên tai lớn tại miền Trung và Tây Nguyên, được đánh giá là vượt qua đỉnh lũ kỷ lục năm 1993 trên lưu vực sông Ba.
Ở Việt Nam, việc tích hay xả nước của hồ chứa thủy điện không hề dễ dãi và tùy tiện hay phụ thuộc vào “ý chí, lợi ích kinh doanh” của doanh nghiệp như một số người lan truyền.
Theo Nghị định 62/2025/NĐ-CP của Chính phủ, quy trình vận hành hồ chứa thủy điện phải tuân thủ quy định của pháp luật về điện lực, tài nguyên nước, pháp luật khác có liên quan và phù hợp với quy trình vận hành liên hồ chứa được cấp thẩm quyền phê duyệt.
Nội dung quy trình vận hành hồ chứa thủy điện bao gồm cơ sở pháp lý để lập quy trình, nguyên tắc vận hành công trình, thông số kỹ thuật chủ yếu, nhiệm vụ công trình; quy định quy trình vận hành cửa van (nếu có); quy định cụ thể về vận hành hồ chứa thủy điện trong mùa lũ, mùa kiệt trong trường hợp bình thường và trong trường hợp xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, lũ, ngập lụt, úng, ô nhiễm nguồn nước và trong tình huống khẩn cấp; quy định chế độ quan trắc, cung cấp thông tin về quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng theo quy định; công tác cảnh báo khi vận hành cửa xả trong trường hợp bình thường và trong tình huống khẩn cấp, cảnh báo khi vận hành phát điện.
Nghị định 62/2025/NĐ-CP quy định khoảng thời gian tối thiểu phải thông báo trước khi vận hành mở cửa xả đầu tiên; tín hiệu cảnh báo, thời điểm cảnh báo, vị trí cảnh báo; trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc phát lệnh, truyền lệnh, thực hiện lệnh vận hành các cửa xả; trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc phát tin, truyền tin, nhận tin cảnh báo đóng/mở cửa xả.
Đơn vị quản lý vận hành công trình thủy điện có trách nhiệm vận hành theo quy trình vận hành hồ chứa thủy điện, quy trình vận hành liên hồ chứa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; tuân thủ các quy định của pháp luật về an toàn công trình thủy điện.
Chủ sở hữu công trình thủy điện có trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp luật về an toàn công trình thủy điện, tài nguyên nước; tổ chức kiểm tra, giám sát đơn vị quản lý vận hành thực hiện quy trình vận hành hồ chứa, quy trình vận hành liên hồ chứa đã được cấp thẩm quyền phê duyệt.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy trình vận hành hồ chứa, quy trình vận hành liên hồ chứa thuộc phạm vi quản lý của tỉnh; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tình huống khẩn cấp vượt quá khả năng ứng phó của địa phương…
Từ văn bản đến thực tiễn của cuộc sống có thể có độ vênh nhất định cần được điều chỉnh, có thể vừa qua đã xảy ra sai sót nào đó ở một doanh nghiệp, thậm chí ở một đơn vị cấp tỉnh trong việc vận hành quy trình xã lũ hồ chứa nước thủy điện. Những sai sót đó (nếu có) sẽ được cơ quan thẩm quyền điều tra, kết luận và xử lý.
Bức xúc trước cảnh người dân phải hứng chịu “lũ bồi lũ” là điều dễ hiểu. Nhưng cảm xúc phải hướng đến đúng đối tượng và tránh bị kích động đến mức cực đoan. Không có gì sai khi phê phán những đơn vị, tổ chức cụ thể buông lỏng quản lý gây hậu quả nghiêm trọng một khi chúng ta nắm được thông tin chính xác. Nhưng “vùi dập” thủy điện nói chung, ngành điện nói riêng hay chỉ trích “bao trùm” tất cả các cấp có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương một cách thiếu cơ sở thì lại là một câu chuyện khác hẳn.
Cảm xúc sai đối tượng và không đúng mức độ cũng gây tác hại cho xã hội, cho đất nước không kém những sai lầm mà chúng ta đang muốn phê phán. Đặc biệt là việc hùa theo những đối tượng phản động, tung thông tin sai sự thật nhằm gây tâm lý hoang mang, bất bình trong dư luận thì sẽ gây hậu quả khôn lường. Bởi vậy, chúng ta cần phải tỉnh táo trước những luận điệu phi căn cứ và cả những lập luận "giả khoa học" nhằm làm mất niềm tin của nhân dân vào các chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước.
Trong tương lai, thủy điện vẫn là một yếu tố để đảm bảo an ninh năng lượng ở Việt Nam cho dù các ngành năng lượng tái tạo khác phát triển đến đâu. Từ nay đến năm 2045, EVN sẽ phát triển hơn 20 dự án nhà máy thủy điện mở rộng với công suất hơn 3800MW, bên cạnh đó là tiếp tục nghiên cứu, lựa chọn những công trình thủy điện nhỏ có hiệu quả cao về kinh tế - kỹ thuật - môi trường để đầu tư, xây dựng nhằm khai thác tối đa nguồn thủy năng của nước ta./.


