Dạy và học bằng tiếng nước ngoài - tiền đề cho giáo dục Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới
Việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài phải xuất phát từ nhu cầu của xã hội, sự tự nguyện của người học và yêu cầu bảo đảm chất lượng giáo dục, đào tạo.
Từ ngày 25/9/2025, Nghị định số 222/2025/NĐ-CP ngày 8/8/2025 của Chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong cơ sở giáo dục có hiệu lực thi hành. Nghị định này hướng đến việc nâng cao năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên, tạo tiền đề cho quá trình hội nhập sâu rộng của giáo dục Việt Nam với thế giới.ừ ngày 25/9/2025, Nghị định số 222/2025/NĐ-CP ngày 8/8/2025 của Chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong cơ sở giáo dục có hiệu lực thi hành. Nghị định này hướng đến việc nâng cao năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên, tạo tiền đề cho quá trình hội nhập sâu rộng của giáo dục Việt Nam với thế giới.
*Chủ động tiếp cận tri thức toàn cầu
Trong nhiều năm qua, việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài tại Việt Nam đã được triển khai ở một số trường phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, các quy định pháp lý còn rời rạc, chưa đồng bộ, dẫn đến sự chênh lệch về chất lượng và quy mô áp dụng giữa các địa phương. Vì vậy, Nghị định 222/2025/NĐ-CP ra đời nhằm thống nhất cách thức triển khai, đảm bảo tính pháp lý và nâng cao chất lượng dạy học bằng tiếng nước ngoài trên phạm vi toàn quốc.
Nghị định hướng đến mục tiêu giúp người học tiếp cận tri thức toàn cầu thông qua các tài liệu học tập và phương pháp giảng dạy hiện đại; chuẩn hóa chất lượng đào tạo để bằng cấp và kỹ năng của người học được công nhận rộng rãi hơn, tạo nền tảng cho khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Về nguyên tắc, việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài phải xuất phát từ nhu cầu của xã hội, sự tự nguyện của người học và yêu cầu bảo đảm chất lượng giáo dục, đào tạo, góp phần quảng bá nền giáo dục, truyền thống và văn hóa Việt Nam.
Các môn học, mô-đun, học phần và các nội dung, hoạt động giáo dục được dạy và học bằng tiếng nước ngoài phải bảo đảm mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục của chương trình đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt ở từng cấp học, trình độ đào tạo và tuân thủ các quy định của pháp luật liên quan đến giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Nghị định cũng quy định chi tiết yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực ngoại ngữ đối với người dạy. Trong đó, giáo viên dạy cấp Tiểu học, Trung học Cơ sở phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương; giáo viên dạy cấp Trung học phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giảng viên đại học phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 5.
Người được đào tạo đại học, thạc sĩ, tiến sĩ toàn thời gian ở nước ngoài với ngoại ngữ là ngôn ngữ giảng dạy và có văn bằng tốt nghiệp được công nhận theo quy định hoặc có bằng tốt nghiệp cử nhân ngoại ngữ, sư phạm ngoại ngữ tại Việt Nam được miễn yêu cầu về năng lực ngoại ngữ.
Trong Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, để Việt Nam có hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng và chất lượng, đứng vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới vào năm 2045, một trong những nhiệm vụ, giải pháp được đề ra, đó là: Tăng cường việc dạy và học ngoại ngữ, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học và dạy ngôn ngữ của các nước láng giềng. Nâng chuẩn tiếng Anh cho giáo viên và học sinh các cấp học; bảo đảm đủ số lượng, trình độ đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất và công nghệ, ứng dụng mạnh mẽ trí tuệ nhân tạo trong dạy và học tiếng Anh; tăng cường giảng dạy các môn học bằng tiếng Anh tại các nơi có điều kiện.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Mai Hữu, Trưởng Ban Quản lý Đề án Ngoại ngữ Quốc gia, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng, việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học là một thử thách, bởi dạy tiếng Anh cho học sinh đã khó, giờ đây lại dùng tiếng Anh để giảng dạy tất cả các môn khác trong nhà trường càng khó hơn. Vì vậy, bên cạnh đội ngũ giáo viên, các nhà trường cần được đầu tư thêm trang thiết bị dạy học, đường truyền, đặc biệt cho các trường vùng sâu, vùng xa.
Để tiếng Anh được sử dụng rộng rãi trong dạy học, quản lí và các hoạt động giáo dục như mục tiêu đề ra, ông Thái Văn Tài, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Phổ thông (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho biết, đối với việc phát triển đội ngũ nhà giáo, cần bổ sung khoảng 12.000 giáo viên tiếng Anh Mầm non, gần 10.000 giáo viên Tiểu học, đồng thời, bồi dưỡng ít nhất 200.000 giáo viên có khả năng giảng dạy các môn học bằng tiếng Anh đến năm 2030.
*Giáo viên đóng vai trò then chốt
Đối với cấp phổ thông, Nghị định 222/2025/NĐ-CP quy định cơ sở giáo dục phổ thông thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông của Việt Nam được dạy và học một số môn học, hoạt động giáo dục hoặc một số nội dung của môn học bằng tiếng nước ngoài, ưu tiên đối với các môn học thuộc các lĩnh vực Toán học, Khoa học tự nhiên, Công nghệ và Tin học.
Cô Nguyễn Thị Minh Thúy, Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở và Trung học phổ thông Nguyễn Siêu (Hà Nội) cho rằng: Việc ưu tiên dạy một số môn như Toán học, Khoa học tự nhiên, Công nghệ và Tin học bằng tiếng nước ngoài là một bước đi quan trọng và cần thiết trong kỷ nguyên số. Học sinh khi được tiếp cận với các môn học này bằng ngoại ngữ sẽ mở ra cánh cửa tiếp cận với kho tàng tri thức của thế giới. Từ đó, các em có cơ hội cập nhật những kiến thức, nghiên cứu mới hay những công nghệ tiên tiến nhất, thay vì phải chờ đợi các tài liệu được dịch thuật.
Là ngôi trường đã có nhiều năm triển khai dạy học một số môn bằng tiếng nước ngoài, Trường Trung học cơ sở và Trung học phổ thông Nguyễn Siêu hiện có hơn 15 môn học dạy bằng ngoại ngữ, bao gồm các môn khoa học cơ bản như: Toán, Vật lí, Hóa học, Sinh học và một số môn học mang tính hướng nghiệp cao như: Tâm lý học, Kinh tế học, Nhập môn kinh doanh, Du lịch và Lữ hành...
Song, cô Nguyễn Thị Minh Thúy cũng chỉ ra những thách thức khi triển khai chương trình dạy các môn học bằng ngoại ngữ là việc quản lý và phát triển nguồn nhân lực giáo viên; đồng thời, đảm bảo học sinh có đủ năng lực ngoại ngữ để tiếp thu và thực hiện tốt chương trình học này. Ví dụ như, để dạy được các môn Toán và Khoa học bằng tiếng Anh, ngoài nghiệp vụ sư phạm, giáo viên Việt Nam cần có năng lực tiếng Anh theo chuẩn quốc tế, với mức IELTS 7.5 trở lên. Việc nâng cao năng lực tiếng Anh cho học sinh cũng cần diễn ra song song với việc đào tạo giáo viên.
Từ tháng 9/2024, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đã chủ động xây dựng và triển khai kế hoạch đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học tại hai đơn vị phổ thông trực thuộc là Trường Trung học Phổ thông Chuyên Ngoại ngữ và Trường Trung học Cơ sở Ngoại ngữ.
Ở Trường Trung học Cơ sở Ngoại ngữ, tiếng Anh được "nhúng" vào các môn qua 3 cấp độ. Cấp độ cơ bản, áp dụng với các môn khoa học xã hội như Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, sử dụng từ ngữ tiếng Anh song song với tiếng Việt. Cấp độ trung bình, áp dụng với các môn tự nhiên, giáo viên cung cấp từ khóa môn học, tài liệu học được thiết kế song ngữ. Cấp độ cao nhất áp dụng với môn Toán - tiếng Anh và STEM, giáo viên sử dụng tiếng Anh hoặc sử dụng giáo trình gốc để giảng dạy trên lớp.
Cô Trần Anh Phương, giáo viên môn Lịch sử, Trường Trung học cơ sở Ngoại ngữ - Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, từ những lo lắng ban đầu, cô đã biến việc sử dụng tiếng Anh trong dạy học trở thành cách đổi mới phương pháp giảng dạy. Thay vì chuyển toàn bộ nội dung bài giảng sang tiếng Anh, cô chọn đưa ngôn ngữ này vào tiết học một cách phù hợp và tự nhiên. Ví dụ, trong các bài học Lịch sử, cô sử dụng tiếng Anh cho các thuật ngữ phổ quát như tên nhân vật lịch sử, sự kiện, địa danh. Bên cạnh đó, để đảm bảo học sinh hiểu rõ bản chất kiến thức, cô Phương khuyến khích các em hoàn thành bài tập bằng tiếng Việt trước, sau đó chuyển sang tiếng Anh để thuyết trình. Điều này giúp học sinh nắm vững nội dung trước khi áp dụng ngoại ngữ, tránh việc chỉ dịch đơn thuần mà không hiểu nội dung.
Nhấn mạnh vai trò then chốt là đội ngũ giáo viên, bà Phan Mỹ Hạnh, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lạng Sơn cho biết: Để đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, tỉnh đang đặc biệt chú trọng việc phát triển nguồn nhân lực. Không chỉ giáo viên dạy tiếng Anh, mà cả giáo viên các bộ môn khác cũng như đội ngũ cán bộ quản lý cũng cần được nâng cao năng lực ngoại ngữ để có thể đồng hành cùng học sinh trong môi trường học tập song ngữ./.