Thể thao

Xây dựng, triển khai đề án bảo tồn và phát triển thể thao dân tộc

Nếu được đầu tư bài bản, các môn thể thao dân tộc hoàn toàn có thể trở thành một phần quan trọng của chiến lược phát triển văn hóa – con người – du lịch trong giai đoạn mới.

Vận động viên thi đấu môn đẩy gậy.
Ảnh: Hoài Thu – TTXVN

Chiến lược phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp quan trọng trong việc phát triển thể thao, trong đó chú trọng đến việc "Bảo tồn, phát triển, phát huy giá trị các môn thể thao dân tộc, trò chơi dân gian; phát triển thể thao giải trí, thể thao mạo hiểm, thể thao gắn với du lịch, lễ hội theo hướng đa dạng, độc đáo và bảo đảm an toàn".

Trao đổi với phóng viên TTXVN về phát triển thể dục thể thao cho mọi người, trong đó có thể thao ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội nêu rõ: Việc phát triển thể thao – nhất là thể thao vùng đồng bào dân tộc thiểu số và thể thao cho mọi người – không chỉ là câu chuyện của văn hóa hay giáo dục thể chất, mà còn là một mắt xích quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững, hướng con người đến những giá trị tích cực, góp phần tạo nền tảng vững chắc để đất nước tiến nhanh và bền vững hơn trong tương lai. Nếu được đầu tư bài bản, các môn thể thao dân tộc hoàn toàn có thể trở thành một phần quan trọng của chiến lược phát triển văn hóa – con người – du lịch trong giai đoạn mới.

*Phóng viên: Cùng với văn hóa, thể thao vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, thể thao cho mọi người cũng được quan tâm bằng nhiều chính sách và hoạt động thiết thực. Theo ông, điều này có tác động như thế nào trong việc phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước?

PGS, TS Bùi Hoài Sơn cho rằng một cộng đồng khỏe mạnh thì mới có thể yên tâm lao động, học tập, sản xuất và sáng tạo.
Ảnh: Văn Điệp/TTXVN

* PGS. TS Bùi Hoài Sơn: Tôi cho rằng, việc chú trọng phát triển thể thao nói chung và thể thao ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng là một chủ trương hết sức đúng đắn, thể hiện tầm nhìn nhân văn của Đảng và Nhà nước trong chiến lược phát triển con người Việt Nam toàn diện. Nếu văn hóa nuôi dưỡng tâm hồn, thì thể thao rèn luyện sức khỏe, ý chí, tinh thần – những yếu tố không thể thiếu của một xã hội mạnh, một dân tộc bền bỉ, một quốc gia có năng lực cạnh tranh trong kỷ nguyên mới.

Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thể thao càng có vai trò đặc biệt. Đây là những địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng hạn chế, nhưng lại chứa đựng tiềm năng lớn về sức mạnh cộng đồng, sự gắn kết và tinh thần vượt khó. Khi các hoạt động thể thao được đầu tư đúng mức – từ thể thao phong trào, thể thao học đường đến các giải thể thao truyền thống – chúng tạo ra không gian để người dân rèn luyện sức khỏe, tăng cường thể lực, mở rộng giao lưu và nâng cao chất lượng cuộc sống. Một cộng đồng khỏe mạnh thì mới có thể yên tâm lao động, học tập, sản xuất và sáng tạo.

Điều quan trọng hơn, thể thao góp phần phát huy nhân tố con người – điều mà Đảng ta luôn coi là trung tâm của phát triển. Thể thao khơi dậy ý chí vươn lên, tinh thần kỷ luật, sự tự tin và khả năng làm việc nhóm. Những phẩm chất này đặc biệt cần thiết ở vùng miền núi, nơi thanh niên phải đối mặt với nhiều thử thách về nghề nghiệp, cơ hội phát triển và khoảng cách tiếp cận các dịch vụ xã hội. Khi thể thao trở thành một phần của đời sống, con người sẽ mạnh mẽ hơn, có cảm hứng hơn và có đủ năng lượng để chủ động nắm bắt cơ hội phát triển.

Chàng trai Mông vừa thổi khèn, vừa nhảy theo điệu nhạc. 
Ảnh: TTXVN

Thực tế cho thấy, nhiều phong trào thể thao quần chúng, giải thi đấu truyền thống, hội khỏe dân tộc thiểu số… đã trở thành không gian lan tỏa tinh thần đoàn kết, tạo động lực để cộng đồng hướng tới lối sống lành mạnh. Điều này phù hợp với định hướng của Nghị quyết Đại hội XIII và các nghị quyết của Chính phủ về nâng cao thể lực, tầm vóc người Việt Nam, cũng như các mục tiêu xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện – vừa có trí tuệ, bản lĩnh, vừa có sức khỏe, nhân cách.

Do đó, tôi tin rằng việc phát triển thể thao – nhất là thể thao vùng đồng bào dân tộc thiểu số và thể thao cho mọi người – không chỉ là câu chuyện của văn hóa hay giáo dục thể chất, mà còn là một mắt xích quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững, hướng con người đến những giá trị tích cực, góp phần tạo nền tảng vững chắc để đất nước tiến nhanh và bền vững hơn trong tương lai.

*Phóng viên: Theo ông chúng ta cần có thêm những chính sách, hành động gì để phát triển các môn thể thao dân tộc và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các hoạt động thể dục thể thao nói chung?

*PGS. TS Bùi Hoài Sơn: Tôi cho rằng phát triển các môn thể thao dân tộc không chỉ là việc bảo tồn một hình thức vận động truyền thống, mà còn là quá trình khơi dậy sức mạnh văn hóa, tinh thần và bản sắc của cộng đồng – những yếu tố làm nên sự khác biệt và sức sống của dân tộc Việt Nam. Thể thao dân tộc, từ bắn nỏ, kéo co, đẩy gậy, đánh quay, leo cột, cho tới đua ngựa, đua ghe Ngo… đều chứa đựng không chỉ kỹ năng vận động mà còn hàm chứa triết lý sinh tồn, nếp sống, nghi lễ, tập tục và tính cộng đồng rất cao. Do đó, nếu được đầu tư bài bản, các môn thể thao dân tộc hoàn toàn có thể trở thành một phần quan trọng của chiến lược phát triển văn hóa – con người – du lịch trong giai đoạn mới.

Để làm được điều đó, theo tôi, có một số định hướng và chính sách cần được triển khai mạnh mẽ hơn.

Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ dành cho nữ. 
Ảnh: Quý Trung – TTXVN

Trước hết, cần xây dựng và triển khai đề án bảo tồn và phát triển thể thao dân tộc, tương tự như những đề án bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể. Chúng ta cần kiểm kê đầy đủ các môn thể thao truyền thống, phân loại theo vùng miền, đánh giá mức độ mai một, từ đó xây dựng kế hoạch bảo tồn và phát triển phù hợp với từng cộng đồng.

Hai là, phải đưa thể thao dân tộc trở thành một thành tố trong chiến lược phát triển du lịch văn hóa và du lịch cộng đồng. Tại nhiều địa phương, những giải đua voi ở Tây Nguyên, đua ngựa ở Bắc Hà, đua ghe Ngo ở Sóc Trăng… đã trở thành điểm nhấn thu hút hàng chục nghìn du khách. Nếu được quy hoạch bài bản, gắn với lễ hội, trải nghiệm văn hóa và dịch vụ du lịch, các môn thể thao dân tộc sẽ vừa được quảng bá rộng rãi, vừa tạo thêm sinh kế cho người dân.

Ba là, chúng ta cần phát triển thể thao dân tộc trong trường học và thiết chế văn hóa – thể thao cơ sở. Đây chính là cách bền vững nhất để truyền lửa cho thế hệ trẻ. Thể thao dân tộc không chỉ rèn luyện thể lực, mà còn giúp học sinh hiểu về cội nguồn, bồi đắp bản sắc và niềm tự hào dân tộc. Điều này phù hợp với mục tiêu xây dựng con người Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện theo tinh thần các nghị quyết của Đảng.

Bốn là, cần đầu tư mạnh mẽ hơn cho nghệ nhân, huấn luyện viên và lực lượng nòng cốt trong cộng đồng. Họ chính là “người giữ hồn” và là cầu nối để truyền dạy kỹ năng, tinh thần và kinh nghiệm cho các thế hệ kế tiếp. Cơ chế đãi ngộ, hỗ trợ tài chính, công cụ tập luyện, trang thiết bị thi đấu cần được chú trọng hơn, thay vì trông chờ vào phong trào tự phát.

Năm là, trong bối cảnh chuyển đổi số, chúng ta nên số hóa các môn thể thao dân tộc, xây dựng kho tư liệu video, hình ảnh, bản vẽ kỹ thuật, ghi chép tri thức và câu chuyện lịch sử của từng môn. Điều này không chỉ giúp bảo tồn tri thức một cách bền vững, mà còn mở ra cơ hội quảng bá trên phạm vi quốc tế, đưa thể thao dân tộc trở thành sản phẩm văn hóa độc đáo của Việt Nam.

Cuối cùng, tôi cho rằng bên cạnh việc bảo tồn và phát triển, chúng ta cũng cần tạo ra môi trường pháp lý và tài chính ổn định cho các giải thể thao dân tộc, từ cấp xã, cấp huyện đến khu vực và toàn quốc. Hệ thống giải đấu thường niên sẽ tạo động lực thực hành, khuyến khích phong trào tập luyện và khơi dậy niềm tự hào văn hóa trong cộng đồng.

Tôi cho rằng, phát triển thể thao dân tộc chính là phát triển con người – phát triển bản sắc – phát triển sức mạnh văn hóa của Việt Nam. Khi những giá trị này được khơi dậy đúng cách, chúng sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng tầm văn hóa dân tộc, tạo nên sức mạnh tinh thần để đất nước vững vàng trong hành trình hội nhập và phát triển.

*Phóng viên: Trân trọng cảm ơn PGS. TS Bùi Hoài Sơn!

(Bài viết có sự phối hợp thực hiện của Vụ Pháp chế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)

Thanh Giang (thực hiện)

Xem thêm