Doanh nghiệp phải lưu ý các yếu tố liên quan đến chất lượng hàng hóa và những tiêu chuẩn về môi trường, tuân thủ luật chơi của các nước phát triển.
Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam hãy nỗ lực, tích cực và kiên trì đổi mới, chuyển đổi theo hướng xanh, bền vững; xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, đồng thời tiếp tục đồng hành và hưởng ứng, hỗ trợ những chương trình của Chính phủ và Bộ Công Thương. Đây là thông điệp được ông Quách Quang Đông, Phó Vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và phát triển bền vững, Bộ Công Thương đưa ra tại Tọa đàm "Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu". Tọa đàm do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức chiều 28/11.
Ông Đông cho biết, những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đều có cam kết về tỉ lệ xóa bỏ thuế quan nhập khẩu đối với những nước tham gia Hiệp định, có thể lên đến 100%. Đây sẽ là cơ hội rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam muốn vươn ra thế giới.
Tuy nhiên, song hành với quá trình này, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải quyết liệt đổi mới tư duy, đổi mới chiến lược để đáp ứng những yêu cầu về phát triển bền vững và tăng trưởng xanh, nghĩa là phải lưu ý các yếu tố liên quan đến chất lượng hàng hóa và những tiêu chuẩn về môi trường, tuân thủ luật chơi của các nước phát triển, tranh thủ những lợi thế quốc gia như chi phí nhân công vẫn đủ ở mức cạnh tranh được.
Để hỗ trợ các chương trình chuyển đổi của các doanh nghiệp theo hướng xanh và bền vững, Chính phủ, Bộ Công Thương đã xây dựng và triển khai nhiều chương trình hỗ trợ trực tiếp như chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019-2030, Chương trình quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021-2030, cũng như Kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh đến năm 2030 có tính đến năm 2050. Các chương trình này nhằm hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi theo hướng sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, nguyên nhiên liệu, năng lượng cũng như tiến đến phát thải thấp trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Ông Lê Việt Anh, Vụ trưởng - Vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho hay, có hai loại ưu đãi đối với các doanh nghiệp tham gia vào tiến trình tăng trưởng xanh là ưu đãi tài chính và ưu đãi phi tài chính. Các cơ chế chính sách ưu đãi về tài chính đối với các doanh nghiệp rất rõ ràng, nằm trong các cơ chế, chính sách cụ thể mà các bộ, ngành đã ban hành.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng dành những chính sách phi tài chính cho doanh nghiệp. Theo đó các doanh nghiệp có cam kết về tiến trình tăng trưởng xanh sẽ được xem xét, phê duyệt để có quy trình thủ tục đầu tư kinh doanh thuận lợi nhất.
Doanh nghiệp muốn hưởng các ưu đãi đối với tiến trình tăng trưởng xanh phải đáp ứng các tiêu chí, nguyên tắc, chỉ tiêu, mục tiêu đề ra. Khuôn khổ chính sách dành cho tăng trưởng xanh ngày càng rõ ràng hơn, minh bạch và cụ thể hơn để doanh nghiệp hiểu và áp dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Tuy nhiên, theo ông Việt Anh, cũng phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua, chính sách về tăng trưởng xanh còn nhiều điểm cần tiếp tục hoàn thiện, dư địa dành cho nội dung hoàn thiện này còn rất lớn. Theo kinh nghiệm quốc tế, việc đầu tiên cần triển khai thời gian tiếp theo là phải có hệ thống phân loại xanh quốc gia rất rõ ràng, cụ thể. Việc này Ban Chỉ đạo quốc gia về tăng trưởng xanh đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành hệ thống xanh quốc gia.
Trên cơ sở đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ ban hành hệ thống ngành xanh quốc gia. Khi hệ thống này được ban hành, sẽ xác định được rõ doanh nghiệp nào, dự án đầu tư nào được hưởng các ưu đãi về cơ chế, chính sách dành cho tăng trưởng xanh. Sau khi hệ thống này được ban hành, chúng ta sẽ có hàng loạt cơ chế chính sách ưu đãi kèm theo rõ ràng dành cho doanh nghiệp.
Chính phủ cũng cho phép áp dụng cơ chế thí điểm liên quan đến tăng trưởng xanh. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp tục nghiên cứu để kiến nghị Thủ tướng cho phép áp dụng những cơ chế ưu đãi đặc thù dành cho các dự án đầu tư, cũng như các doanh nghiệp liên quan đến tăng trưởng xanh.
“Cần phải xác định rằng tăng trưởng xanh là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, trong đó có trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, các chủ thể liên quan và đặc biệt là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”, ông Việt Anh nói.
Chia sẻ về những hoạt động đầu tư cho phát triển bền vững của Nestlé ở Việt Nam, ông Binu Jacob, Tổng Giám đốc cho biết, Nestlé đã hỗ trợ hàng trăm nghìn hộ gia đình trồng cà phê để bảo đảm việc canh tác sử dụng lượng phân bón hóa học, lượng thuốc trừ sâu tối thiểu, có chiến lược giảm 20% thuốc trừ sâu, giảm 20% lượng nước sử dụng cho cây cà phê. Nestlé cũng tiết kiệm lượng nước sử dụng ở tất cả nhà máy của mình. Trong 3 năm qua, Nestlé là một trong những công ty hiếm hoi ở Việt Nam nhận được chứng chỉ của tổ chức Water Stewardship cho những giải pháp tiết kiệm nước. Hiện nay Công ty này thực hiện 100% trung hòa về nước, có nghĩa là hoàn toàn có thể tái chế nước đã qua sử dụng.
Một sáng kiến nữa để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, đó là Nestlé cam kết thu mua lại tất cả bao bì của mình để tái chế. Hiện nay 95% bao bì của Nestlé lưu hành trên thị trường đều được công ty này thu mua lại để có thể tái chế, tái sử dụng.
Nêu giải pháp thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên Nguyễn Hùng Nam cho rằng, trước hết là huy động các nguồn lực để xây dựng hiệu quả các khu công nghiệp xanh, nhất là nguồn lực về tài chính; hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp trong khu công nghiệp về các nguồn vốn vay ưu đãi để đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất, sử dụng tối đa các nguồn lực và giảm thiểu đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong các khu, cụm công nghiệp được tiếp cận các phương thức sản xuất mới, tiên tiến, cải tiến công nghệ để sản xuất sạch hơn./.