Bên cạnh chiến lược tăng trưởng xanh, Việt Nam đã xây dựng nhiều kế hoạch và chương trình hành động liên quan đến chuyển đổi xanh như Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050.
Ngày 31/10, Viện Kinh tế Việt Nam (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức Hội thảo “Phát triển thị trường tài chính xanh ở Việt Nam: Những rào cản, vấn đề cấp bách và giải pháp đột phá”.
Hội thảo nhằm nhận diện thuận lợi, khó khăn và rào cản đối với phát triển thị trường tài chính xanh; từ đó, tìm ra giải pháp thúc đẩy thị trường này phát triển hữu hiệu, an toàn, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Hội thảo thu hút sự tham gia của đại diện các bộ, ngành, ngân hàng, tổ chức tài chính quốc tế và nhiều chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực tài chính, kinh tế. Kết quả Hội thảo được kỳ vọng sẽ là nguồn tư liệu hữu ích cho các cơ quan lập pháp, hoạch định chính sách nhằm phát triển thị trường tài chính xanh, thúc đẩy phát triển bền vững và tăng trưởng xanh ở Việt Nam.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Tiến sĩ Bùi Thị Quỳnh Thơ, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết, chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là xu thế tất yếu, khách quan và không thể đảo ngược của thế giới. Với mục tiêu phát triển kinh tế thịnh vượng, bảo vệ môi trường bền vững và đảm bảo an toàn xã hội, nhiều quốc gia đã cam kết giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26). Đến nay, đã có hơn 50 quốc gia xây dựng chiến lược phát triển xanh.
Tại Việt Nam, tăng trưởng xanh và chuyển đổi xanh đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Từ năm 2012, Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và đến tháng 10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050”.
Bên cạnh chiến lược tăng trưởng xanh, Việt Nam đã xây dựng nhiều kế hoạch và chương trình hành động liên quan đến chuyển đổi xanh như Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050, Chương trình hành động chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí carbon, chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững. Việt Nam cũng cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và tham gia các sáng kiến quốc tế nhằm thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và tăng trưởng xanh.
Theo Báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 2022, để đạt được mục tiêu phát triển xanh và giảm phát thải ròng, Việt Nam cần khoản đầu tư tương đương 6,8% GDP mỗi năm, tức khoảng 368 tỷ USD đến năm 2040. Điều này đòi hỏi các cơ chế huy động vốn hiệu quả từ cả trong và ngoài nước, khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân vào các dự án xanh.
Nêu một số thuận lợi và khó khăn của thị trường tài chính xanh tại Việt Nam, Tiến sĩ Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam đánh giá, thuận lợi trong phát triển tài chính xanh đến từ cam kết chống biến đổi khí hậu và giảm phát thải ròng của quốc tế, cùng quá trình đổi mới công nghệ, sự gia tăng nhu cầu về môi trường sạch ở tầng lớp trung lưu. Tuy nhiên, thị trường tài chính xanh của Việt Nam còn gặp nhiều thách thức như khung pháp lý chưa hoàn thiện, thông tin về tài chính xanh chưa đầy đủ và thiếu nhất quán dẫn đến khó khăn trong đầu tư và phát hành trái phiếu xanh.
Còn theo Tiến sĩ Nguyễn Thanh Nga, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính, các tiêu chuẩn đánh giá dự án xanh chưa rõ ràng, thiếu nhà đầu tư tổ chức, quy mô thị trường nhỏ và thanh khoản thấp. Tiến sĩ Nga đề xuất rà soát, bổ sung và hoàn thiện cơ sở pháp lý, áp dụng các ưu đãi thuế và phí, đồng thời phát triển các định chế trung gian và cơ sở hạ tầng tài chính minh bạch nhằm tạo động lực cho thị trường.
Thị trường trái phiếu xanh cũng được đề cập như một công cụ tài chính quan trọng trong phát triển kinh tế xanh. Theo báo cáo, Việt Nam hiện đứng thứ hai trong ASEAN về quy mô phát hành nợ xanh, chỉ sau Singapore. Dù đã phát triển hơn 20% mỗi năm từ 2017, tín dụng và trái phiếu xanh tại Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ so với nhu cầu vốn cho các dự án chuyển đổi xanh.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, Việt Nam mới phát hành khoảng 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh trong giai đoạn 2019 - 2023, rất khiêm tốn so với nhu cầu vốn khoảng 20 tỷ USD mỗi năm. Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần đa dạng hóa các sản phẩm tài chính xanh và thiết lập cơ quan đánh giá độc lập nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả của thị trường.
Về khía cạnh giảm phát thải khí nhà kính, Tiến sĩ Nguyễn Thị Liễu từ Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu cho biết, Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp lý nhằm kiểm kê và giảm phát thải khí nhà kính. Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn và Quyết định 13/2024/QĐ-TTg ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật) đều đề ra lộ trình phát triển thị trường carbon nội địa và triển khai hệ thống giám sát, báo cáo và thẩm định (MRV) nhằm đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Để thực hiện các cam kết tại Hội nghị COP26, Việt Nam cần huy động sự tham gia của toàn hệ thống chính trị, các cấp chính quyền cùng với quyết tâm và nguồn lực mạnh mẽ nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững, giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường trong dài hạn.
Các chuyên gia cũng chỉ ra một số rào cản đối với phát triển thị trường tài chính xanh như sự thiếu hụt về tiêu chuẩn hóa và quy định rõ ràng cho các sản phẩm tài chính xanh; cơ chế đầu tư và các quy định tín dụng hiện hành chưa đủ để thúc đẩy đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo, trong khi hạn mức tín dụng và sự thiếu minh bạch thông tin gây khó khăn cho các nhà đầu tư khi đánh giá rủi ro.
Bên cạnh đó, để phát triển thị trường tài chính xanh, Việt Nam cần một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh cùng các chính sách ưu đãi rõ ràng nhằm khuyến khích đầu tư vào các dự án xanh.
Một số chuyên gia đề xuất Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền xem xét các mô hình tài chính xanh hiệu quả từ quốc tế, áp dụng các thông lệ tốt nhằm thu hút nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân trong nước, từ đó thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh ở Việt Nam./.