Hiện có 2.637 chương trình đào tạo được kiểm định, đạt tỷ lệ 52,1% so với 5.007 lượt ngành đại học, 38,4% so với 6.792 ngành trình độ đại học và thạc sĩ.
Ngày 7/10, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội nghị sơ kết việc thực hiện Quyết định số 78/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình "Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 - 2030".
*Chuyển biến rõ nét trong kiểm định chất lượng đại học
Báo cáo kết quả thực hiện trong giai đoạn 2022-2025, ông Huỳnh Văn Chương, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho biết: Hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam đã có những chuyển biến rõ nét cả về nhận thức và hành động.
Theo tổng hợp kết quả khảo sát từ 177 cơ sở giáo dục đại học và kết quả sơ bộ đánh giá đối với 5/7 tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước, đã có 170/177 cơ sở giáo dục đại học thiết lập đơn vị chuyên trách hoặc bộ phận phụ trách công tác bảo đảm chất lượng, chiếm 96,3%. Đây là chỉ tiêu quan trọng trong Quyết định 78/QĐ-TTg và phù hợp với yêu cầu tại Nghị quyết 71-NQ/TW, để hoàn thiện hệ thống quản trị đại học hiện đại, thúc đẩy văn hóa chất lượng.
Hiện có 2.637 chương trình đào tạo được kiểm định (1.941 chương trình đào tạo kiểm định theo tiêu chuẩn trong nước và 696 chương trình đào tạo kiểm định theo tiêu chuẩn nước ngoài), đạt tỷ lệ 52,1% so với 5.007 lượt ngành đại học, 38,4% so với 6.792 ngành trình độ đại học và thạc sĩ. Kết quả này cho thấy hệ thống đang vượt so với mục tiêu trung hạn (35% chương trình đào tạo đạt kiểm định chất lượng, trong đó 10% chương trình đào tạo đạt kiểm định chất lượng giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế).
Nhận thức của các cơ sở giáo dục đại học về vai trò của bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng đã có sự chuyển biến rõ rệt, thể hiện qua việc chủ động thực hiện tự đánh giá, cải tiến quy trình nội bộ và tham gia kiểm định ở nhiều cấp độ.
Tuy nhiên, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng cũng chỉ rõ: Hạn chế về tài chính – nhân sự – cơ chế hệ thống đang tạo thành "nút thắt" kép, vừa làm giảm hiệu quả vận hành hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong vừa kìm hãm khả năng cải tiến và hội nhập quốc tế của các cơ sở giáo dục đại học.
Hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong tại nhiều cơ sở giáo dục đại học còn thiếu tính đồng bộ, mới tập trung vào hình thức, chưa vận hành theo chu trình đầy đủ và chưa gắn kết chặt chẽ với cải tiến chương trình đào tạo, quản trị. Kết quả kiểm định chất lượng, dù đã đạt được, nhưng ở nhiều nơi chưa được khai thác như công cụ quản trị thực chất, mà chỉ dừng ở mức đáp ứng yêu cầu thủ tục hành chính.
Ông Huỳnh Văn Chương chia sẻ: Mặc dù các bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành hiện nay đã tiệm cận với chuẩn mực quốc tế, thậm chí có một số tiêu chí yêu cầu về tuân thủ khá khắt khe, tuy nhiên, năng lực thực hiện trong toàn hệ thống không đồng đều; còn không ít cơ sở giáo dục đại học chưa đủ nội lực để vận hành hệ thống bảo đảm chất lượng một cách thực chất và hiệu quả. Bên cạnh đó, đội ngũ kiểm định viên trong nước tuy đã được đào tạo, nhưng vẫn còn thiếu về số lượng, chưa đồng đều về năng lực, đặc biệt là về khả năng tư vấn cải tiến, phân tích dữ liệu và đánh giá năng lực đầu ra.
*Các trung tâm kiểm định phải thật sự là "người gác cổng" của chất lượng
Trao đổi tại hội nghị, ý kiến từ đại diện một số cơ sở đào tạo cho rằng: Sự gắn kết giữa tự chủ đại học và đảm bảo chất lượng là yếu tố then chốt để hệ thống vận hành thực chất, hiệu quả và bền vững. Khi tự chủ đồng nghĩa với trách nhiệm giải trình, các trường buộc phải duy trì minh bạch, công khai thông tin và sử dụng kết quả kiểm định như một động lực cải tiến. Đồng thời, đảm bảo chất lượng còn là động lực thúc đẩy quản trị tinh gọn, giúp nhà trường tái cấu trúc tổ chức, chuẩn hóa quy trình và nâng cao hiệu quả vận hành, qua đó củng cố nền tảng cho tự chủ.
Vì vậy, theo kiến nghị của các cơ sở đào tạo, về pháp lý, cần có thông tư hướng dẫn chi tiết về tự chủ gắn với hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong. Về nguồn lực, cần quy định rõ kinh phí dành cho công tác đảm bảo chất lượng và có chính sách hỗ trợ trong giai đoạn chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Về nhân sự, cần ban hành chuẩn năng lực cho cán bộ quản lý, giảng viên và chuyên trách đảm bảo chất lượng, đồng thời xây dựng cơ chế đãi ngộ để bảo đảm tính ổn định, chuyên nghiệp.
Phát biểu kết luận tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc cho rằng: Trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi sâu rộng, thực hiện theo yêu cầu tại Nghị quyết 71-NQ/TW, Nghị quyết 57-NQ/TW và Chiến lược phát triển giáo dục, ba từ khóa quan trọng trong công tác đảm bảo và kiểm định chất lượng là: hoàn thiện, thực chất và hội nhập quốc tế. Bởi dù đã có nhiều kết quả, nhưng kiểm định chất lượng đại học của Việt Nam còn khoảng cách khá xa so với yêu cầu và chuẩn mực quốc tế.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc, điểm mấu chốt của kiểm định là phải đảm bảo thực chất. Kiểm định phải trung thực, khách quan, không hình thức. Nếu kiểm định không đạt thì phải thẳng thắn nói không đạt, tuyệt đối không du di.
"Đảm bảo và kiểm định chất lượng không chỉ là yêu cầu quản lý, mà còn là nền tảng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - yếu tố quyết định cho mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước có thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, công nghiệp hiện đại. Không có quốc gia phát triển nào mà không có các trường đại học đẳng cấp thế giới" - Thứ trưởng nhấn mạnh. Do đó, mỗi cơ sở giáo dục đại học cần rà soát lại hệ thống của mình, hoàn thiện hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ như một phần cốt lõi, gắn liền với lợi ích và sự phát triển bền vững của nhà trường. Mỗi trường cần chủ động kiểm định chất lượng cơ sở và chương trình đào tạo, lan tỏa văn hóa chất lượng đến từng bộ phận, từng giảng viên, liên tục cải tiến.
Về các trung tâm kiểm định, Thứ trưởng lưu ý, cần xem xét mô hình tổ chức phù hợp nhất, học hỏi kinh nghiệm từ một số quốc gia để xây dựng hệ thống kiểm định phù hợp với điều kiện Việt Nam. Các trung tâm phải thật sự là "người gác cổng" của chất lượng, hoạt động khách quan, độc lập, trung thực, chuyên nghiệp, không thể để tình trạng trung tâm này làm nghiêm túc, trung tâm khác lại dễ dãi.
Các trung tâm cũng cần phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc góp ý, hoàn thiện các quy định, chuẩn mực kiểm định.
Về phía Bộ Giáo dục và Đào tạo, với vai trò cơ quan quản lý nhà nước, Bộ không làm thay công tác kiểm định, mà đóng vai trò hậu kiểm và tạo hành lang pháp lý. Cục Quản lý chất lượng là đơn vị đầu mối, phối hợp với Vụ Giáo dục Đại học, các đơn vị liên quan để tổng hợp ý kiến, nghiên cứu kỹ và hoàn thiện thể chế. Tất cả đều hướng đến mục tiêu tạo ra một hành lang pháp lý tiên tiến, phù hợp thực tiễn, thúc đẩy phát triển hệ thống đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học./.