Hiện nay, ngành sản xuất đậu tương trong nước đang gặp nhiều thách thức, đặc biệt là cạnh tranh về giá với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu có sự đầu tư đúng mức vào công nghệ, nghiên cứu giống mới và các phương pháp canh tác hiện đại, đậu tương hoàn toàn có thể trở thành cây trồng chiến lược, góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, hướng tới xuất khẩu.
Ngày 6/11, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội) phối hợp Hội Giống cây trồng Việt Nam tổ chức Hội thảo “Phát triển cây đậu tương vụ Đông theo chuỗi giá trị sản phẩm”. Đây là cơ hội để các nhà khoa học, chuyên gia nông nghiệp, doanh nghiệp, nông dân trao đổi kinh nghiệm, đề xuất giải pháp cụ thể về phát triển chuỗi giá trị từ khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm đậu tương - một sản phẩm quan trọng của ngành Nông nghiệp Việt Nam.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Phạm Quang Thao, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cho biết, phát triển cây đậu tương vụ Đông là một định hướng quan trọng giúp nâng cao giá trị kinh tế cho ngành nông nghiệp nước ta. Đây là loài cây có giá trị về kinh tế, có vai trò lớn trong cải tạo đất đai, giúp phục hồi và tái tạo đất đã thoái hóa sau nhiều năm canh tác lúa và ngô. Hiện nay, ngành sản xuất đậu tương trong nước đang gặp nhiều thách thức, đặc biệt là cạnh tranh về giá với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu có sự đầu tư đúng mức vào công nghệ, nghiên cứu giống mới và các phương pháp canh tác hiện đại, đậu tương hoàn toàn có thể trở thành cây trồng chiến lược, góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, hướng tới xuất khẩu.
Theo Chủ tịch Hội Giống cây trồng Việt Nam, Giáo sư, Viện sỹ Trần Đình Long, trước đây, diện tích trồng đậu tương toàn quốc đạt 205.000 ha, nhưng giai đoạn 2017-2021 đã giảm mạnh xuống còn 36,8 ngàn ha. Mặc dù diện tích giảm, năng suất đậu tương bình quân vẫn tăng nhẹ từ 1,49 tấn/ha năm 2017 lên 1,62 tấn/ha năm 2021, tăng 0,13 tấn/ha, tương đương 8,7%. Ông cho rằng cần tăng cường nghiên cứu di truyền phân tử, chọn tạo giống đậu tương ngắn ngày, chịu lạnh, giàu protein và isoflavone để phục vụ chế biến sữa đậu nành và dược liệu. Đồng thời, phát triển các giống đậu tương ăn tươi, phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu cùng các kỹ thuật canh tác hữu cơ, cơ giới hóa trong thu hoạch.
Chủ tịch Hội Giống cây trồng Việt Nam cũng nêu một số giải pháp về thu thập và lưu giữ nguồn gen đậu tương, hợp tác quốc tế. Việc sản xuất và chế biến theo chuỗi giá trị cũng được khuyến khích nhằm gia tăng giá trị thông qua các sản phẩm như sữa đậu nành, bột dinh dưỡng, chế phẩm isoflavone, phụ phẩm làm thức ăn chăn nuôi, giá thể nuôi nấm.
Chia sẻ về việc chọn tạo thành công các giống đậu tương thâm canh cho vụ Đông ở Đồng bằng sông Hồng, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Thị Hường, Hội Giống cây trồng Việt Nam đề cập đến các giống ĐT26 và ĐT35, cùng các giống đa vụ như ĐT51, ĐT32, ĐT33, và ĐT34. Các giống này mang lại hiệu quả kinh tế cao; điển hình như giống ĐT26 đạt lãi thuần trung bình 18,7 triệu đồng/ha (2012-2014), giống ĐT34 đạt 34,3 triệu đồng/ha trong vụ Đông 2019. Bà đề xuất quy hoạch vùng trồng đậu tương phù hợp cho cơ giới hóa, phát triển theo hướng hữu cơ và tăng cường chế biến để nâng cao giá trị hàng hóa.
Thạc sỹ Nguyễn Xuân Thu, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và phát triển đậu đỗ, Viện Cây lương thực và cây thực phẩm, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất đậu tương vụ Đông ở Đồng bằng sông Hồng. Đó là phát triển vùng nguyên liệu với giống năng suất cao, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tuyển chọn giống thích hợp cho cơ giới hóa và chịu điều kiện khí hậu bất thuận, đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa để giảm chi phí và tăng năng suất.
Thạc sỹ Nguyễn Xuân Dũng, Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam cũng đề xuất nâng cao hiệu quả sản xuất đậu tương ở Đồng bằng sông Hồng. Theo đó, cần quy hoạch hạ tầng, đặc biệt hệ thống tưới tiêu, tăng cường nghiên cứu giống cũng như kỹ thuật canh tác, chú trọng hỗ trợ nông dân về kỹ thuật, giống, vật tư, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp tham gia cung ứng và bao tiêu sản phẩm...
Các đại biểu tập trung thảo luận về giải pháp nâng cao giá trị sản xuất đậu tương vụ Đông vùng đồng bằng sông Hồng; đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn xây dựng đề án phát triển đậu tương vụ Đông, chế biến sữa đậu nành với diện tích 300 ngàn ha, sản lượng dự kiến 600 ngàn tấn/năm phục vụ sản xuất sữa đậu nành và dược phẩm; hướng tới mục tiêu chiếm trên 15% thị phần xuất khẩu sữa đậu nành toàn cầu, phát triển nông nghiệp tuần hoàn và bền vững./.
- Từ khóa:
- Cây đậu tương
- vụ đông