Văn hóa

Tranh dó – sức sống mới từ chất liệu truyền thống

Trong lịch sử mỹ thuật dân gian, giấy dó là nền tảng của tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống, nhiều văn bản Hán Nôm và sắc phong cổ.

Tác phẩm nghệ thuật vẽ trên giấy dó. 
Ảnh: Phương Thanh-TTXVN

Tranh dó đang dần hồi sinh trở lại trong đời sống mỹ thuật đương đại. Chất liệu truyền thống từng gắn với tranh dân gian đang bước ra khỏi phạm vi làng nghề, hiện diện trong nhiều triển lãm, sáng tác cá nhân và hoạt động sáng tạo của họa sĩ trẻ.

Vẻ đẹp mộc mạc, chiều sâu thẩm mỹ

Giấy dó là chất liệu đặc biệt. Về cảm quan, tờ giấy mỏng, xốp, nhẹ, tưởng chừng mong manh nhưng lại vô cùng dẻo dai. Khi làm việc với giấy dó, họa sĩ phải hiểu rõ tính chất thấm nước, độ loang màu và cấu trúc sợi giấy. Chỉ một thao tác sai trong việc lấy mực hay điều tiết nước trên đầu bút cũng có thể làm hỏng bề mặt tranh. Chính yêu cầu khắt khe ấy tạo ra thách thức nhưng cũng đem lại sức hấp dẫn đối với người sáng tác.

Quy trình làm giấy dó. 
Ảnh: TTXVN phát

Giấy dó được chế tác từ vỏ cây dó theo phương pháp thủ công truyền thống, qua nhiều công đoạn: ngâm vôi, nấu chín, giã nhuyễn, lọc sạch và trộn với chất kết dính từ cây mò. Hỗn hợp xơ giấy được “seo” trên liềm tre để tạo thành tờ giấy. Mỗi thao tác đều đòi hỏi sự kiên trì, kinh nghiệm và độ cảm nhận nghề nghiệp cao của người thợ. Nhờ không sử dụng hóa chất, giấy dó có tuổi thọ cao, ít mục, ít mối mọt, phù hợp với lưu trữ tranh và tài liệu lâu dài.

Trong lịch sử mỹ thuật dân gian, giấy dó là nền tảng của tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống, nhiều văn bản Hán Nôm và sắc phong cổ. Ngày nay, chất liệu này tiếp tục được các họa sĩ khai thác theo hướng mới: đề tài hiện đại, góc nhìn cá nhân, kỹ thuật mới mẻ. Sự kết hợp giữa đường nét dân gian và tư duy tạo hình mới giúp tranh dó mở rộng không gian biểu đạt.

Tranh dân gian Đông Hồ được vẽ trên nền giấy dó. 
Ảnh: Hoàng Hiếu - TTXVN

Một đặc điểm đáng chú ý là giấy dó thay đổi theo thời gian. Giấy để lâu sẽ mềm, độ loang màu trở nên mượt mà hơn. Vì vậy, nhiều họa sĩ có thói quen cất giữ giấy trong thời gian dài trước khi sáng tác. Giấy dó nguyên chất mỏng, mịn và dai; giấy dó pha dày, cứng hơn, phù hợp với từng mục đích sáng tác khác nhau. Sự đa dạng về độ dày như dó đơn, dó kép hay bóc hai, bóc bốn mang lại cho người vẽ thêm lựa chọn kỹ thuật.

Theo chuyên gia, kỹ thuật vẽ tranh dó đòi hỏi sự tiết chế. Màu sắc thường thiên về các gam trầm, ít sặc sỡ. Họa sĩ chú trọng mảng, khối, “khoảng thở” của giấy và độ trong của nền dó. Bút pháp cần dứt khoát, mạch lạc nhưng vẫn giữ được độ mềm tự nhiên. Người vẽ thường phải luyện tay hàng ngày để điều khiển được mực và nước theo đúng ý muốn. Có thể nói, quá trình luyện bút là phần quan trọng tạo nên phẩm chất riêng cho tranh dó.

Bên cạnh giá trị nghệ thuật, tranh dó còn mang ý nghĩa gìn giữ di sản nghề truyền thống. Việc duy trì trồng cây dó, sản xuất giấy thủ công, truyền dạy kỹ thuật chế tác đang góp phần bảo tồn làng nghề và văn hóa dân gian.

Làm mới từ chất liệu truyền thống

Tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (66 Nguyễn Thái Học, Hà Nội) đang diễn ra triển lãm “Góp dó 3” quy tụ 15 họa sĩ, gồm: Nguyễn Dương Đính, Đặng Tiến, Võ Lương Nhi, Trần Vinh, Nguyễn Đoan Ninh, Nguyễn Nghĩa Cương, Vũ Thái Bình, Bùi Tiến Tuấn, Đặng Hữu, Bùi Văn Tuất, Nguyễn Minh Hiếu, Đoàn Đức Hùng, Hà Huy Mười, Chu Văn và Nguyễn Minh. Họ thuộc nhiều thế hệ khác nhau, theo đuổi đa dạng phong cách và thực hành nghệ thuật, nhưng gặp nhau ở điểm chung, đó là tình yêu với dó.

Khách tham quan triển lãm "Góp dó 3". 
Ảnh: Phương Thanh-TTXVN

Tham gia triển lãm, họa sĩ Đặng Tiến chia sẻ, nhóm “Góp dó” được hình thành từ năm 2018, ban đầu gồm một số họa sĩ thân thiết, sau đó lan tỏa dần và kết nối thêm nhiều thành viên mới qua từng mùa triển lãm. Hầu hết họa sĩ đều đã từng sáng tác trên dó, dù không phải ai cũng gắn bó lâu dài chất liệu này. 15 phong cách với gần 100 bức tranh cho thấy giấy và các biến thể của giấy có thể tiếp nhận nhiều phong cách khác nhau: từ trữ tình, hiện thực, biểu hiện đến trừu tượng.

Họa sĩ Bùi Văn Tuất nổi bật với kỹ thuật sơn dầu tả thực điêu luyện, tinh tế và giàu cảm xúc. Đoàn Đức Hùng tạo ấn tượng bằng nét cọ mạnh mẽ, khảng khái, chất biểu hiện rõ nét qua hình thể vặn xoáy, màu sắc dồn nén đầy năng lượng. Bùi Tiến Tuấn đưa vẻ mềm mại, quyến rũ của lụa lên giấy dó, với hình tượng nữ bay bổng trong không gian đậm chất Á Đông. Hà Huy Mười với loạt tranh “Đêm” mở rộng tư duy liên hoàn, nhấn mạnh sự biến đổi sắc độ và nhịp điệu như một quá trình suy tưởng liên tục. Đặng Hữu gây ấn tượng bằng bố cục phố xá chắc khỏe, bút pháp nhanh mạnh, phóng khoáng... Mỗi tác phẩm là một tiếng nói riêng, nhưng khi đặt cạnh nhau, chúng tạo ra một tổng thể đối thoại về mối quan hệ giữa vật liệu - màu sắc - hình thái trong mỹ thuật.

Nói về sức hấp dẫn của dó, họa sĩ Đặng Tiến nhấn mạnh đây là chất liệu dân gian, có thể kết hợp linh hoạt với nhiều loại màu khác nhau, như mực nho, màu nước, bột màu, acrylic, thậm chí cả sơn dầu. Vấn đề quan trọng là họa sĩ phải biết khai thác đặc trưng chất liệu để tạo hiệu ứng thẩm mỹ riêng. Chính sự mộc mạc, giàu biểu cảm đã giúp giấy dó luôn giữ được sức hút với các họa sĩ, kể cả lớp trẻ.

Tác phẩm vẽ trên dó. 
Ảnh: Phương Thanh-TTXVN

Theo đuổi giấy dó hơn hai thập niên, họa sĩ Vũ Thái Bình cho rằng chất liệu chỉ là phương tiện chuyển tải cảm xúc và tư tưởng sáng tạo, song giấy dó mang lại cho anh nhiều cảm hứng nhất. Từ loại giấy vốn dùng để ghi chép, lưu giữ, có độ bền cao, Vũ Thái Bình muốn đưa giấy dó vượt khỏi vai trò truyền thống, trở thành nền tảng cho những tác phẩm nghệ thuật có giá trị thẩm mỹ riêng và được nhìn nhận xứng tầm.

Là một chất liệu rất Việt Nam, không thể nhầm lẫn dó với bất kỳ loại giấy nào khác. Điều khiến họa sĩ Vũ Thái Bình đặc biệt thích thú là quy trình làm giấy hoàn toàn thủ công, tỉ mỉ từ khâu sơ chế đến khi hoàn thiện. Không chỉ bền, giấy dó còn thích ứng tốt với khí hậu nóng ẩm của Việt Nam, tạo nên lợi thế mà ít chất liệu nào có được.

Nói về ưu điểm và hạn chế khi sáng tác trên giấy dó, họa sĩ Vũ Thái Bình chia sẻ đây là một chất liệu đẹp nhưng khó “chinh phục”. Giấy mềm, mỏng, khi đặt bút màu sẽ “ăn” ngay, gần như không cho phép sửa chữa. Người vẽ vì thế buộc phải cẩn trọng, nhẹ nhàng, đồng thời am hiểu đặc tính dày mỏng của từng loại giấy bóc một, bóc hai, bóc ba… Mỗi cấp độ tạo nên hiệu ứng thị giác khác nhau và đòi hỏi cách xử lý riêng biệt. Với màu sắc, Vũ Thái Bình chọn vẽ bằng màu nước, chồng nhiều lớp trên giấy để tạo chiều sâu cho bức tranh. Sự kiên trì, làm chủ chất liệu trong thời gian dài đã giúp anh tự tin hơn khi sáng tác trên dó.

Theo họa sĩ Vũ Thái Bình, tranh dó ngày nay vẫn có sức hấp dẫn đặc biệt với họa sĩ trẻ, còn việc có dễ bán hay không còn phụ thuộc vào sự đồng cảm và thị hiếu của công chúng nghệ thuật. Mỗi tác phẩm cũng như mỗi con người đều mang cá tính riêng, vì vậy không phải ai cũng yêu thích cùng một phong cách, nhưng chính sự khác biệt ấy làm nên sức sống của hội họa.

Ở “Góp dó 3”, truyền thống không bị đóng khung như một di sản tĩnh, mà tiếp tục được thử nghiệm, diễn giải với nhiều thể nghiệm độc đáo, mới lạ. Cùng với chức năng nguyên thủy của giấy dó trong văn hóa Việt, “Góp dó 3” đã lưu giữ, làm mới và gửi gắm ước vọng mùa xuân./.

Phương Thanh

Tin liên quan

Xem thêm