Giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học biển dưới tác động của phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam được Liên minh bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) đánh giá là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển và là một trong 20 vùng biển có nguồn lợi hải sản phong phú trên thế giới với khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau.
Nhằm khẳng định vai trò và trách nhiệm của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong công tác bảo vệ môi trường hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam, chiều 13/11, tại Hải Phòng, Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức hội thảo “Tác động của phát triển kinh tế - xã hội tới đa dạng sinh học biển”.
Phát biểu khai mạc, Tiến sĩ Nguyễn Song Tùng, Viện trưởng Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững cho biết, Việt Nam được Liên minh bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) đánh giá là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển và là một trong 20 vùng biển có nguồn lợi hải sản phong phú trên thế giới với khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau.
Chính phủ Việt Nam đã ban hành các quy định và thực hiện cam kết của Liên hợp quốc về “Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững”; Kế hoạch thực hiện “Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”. Kế hoạch cũng xác định các hệ sinh thái biển, ven biển đóng vai trò quan trọng trong duy trì đa dạng sinh học, cung cấp nguồn lợi hải sản, điều hòa thời tiết, khí hậu và là “cơ sở hạ tầng” tự nhiên chống đỡ thiên tai và biến đổi khí hậu.
Thông qua hội thảo, Tiến sĩ Nguyễn Song Tùng tin tưởng rằng sự kiện này không những góp phần nâng cao nhận thức của người lao động Viện Hàn lâm, thay đổi thái độ, hành vi của mỗi người, tạo sức lan tỏa xã hội về bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học biển, mà còn cung cấp thông tin, kiến thức cơ bản về bảo tồn đa dạng sinh học biển, các thách thức đặt ra và những giải pháp, yêu cầu đối với bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học biển.
Tổng quan về khu dự trữ sinh quyển thế giới Vườn Quốc gia Cát Bà, ông Vũ Hồng Vân, Trưởng phòng Bảo tồn và hợp tác quốc tế cho rằng, Vườn Quốc gia Cát Bà có tiềm năng, lợi thế vô cùng quan trọng đổi với quốc gia và quốc tế với hệ thống núi đá vôi điển hình gồm 366 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên địa hình muôn vẻ, với 10 hệ sinh thái hải đảo quan trọng của Việt Nam. Trong đó có Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi; Hệ sinh thái rừng ngập mặn; Hệ sinh thái hang động trên cạn; Hệ sinh thái hang động ngầm; Hệ sinh thái hồ nước mặn (áng); Hệ sinh thái tùng khu vực đảo và quần đảo đá vôi; Hệ sinh thái cỏ biển; Hệ sinh thái vùng triều các đảo và quần đảo đá vôi; Hệ sinh thái san hô quanh các đảo đá vôi; Hệ sinh thái đáy mềm và thuỷ vực bao quanh các đảo.
Chia sẻ một số trở ngại, khó khăn trong hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học biển Việt Nam, Tiến sĩ Trần Thị Tuyết, Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững cho biết, hiện hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý, khai thác, bảo vệ tài nguyên, môi trường biển và hải đảo vẫn còn phân tán, chủ yếu nằm rải rác trong nhiều văn bản. Năng lực quản lý nhà nước về đa dạng sinh học còn nhiều bất cập, không theo kịp với sự phát sinh và tính chất ngày càng phức tạp của các vấn đề môi trường; thiếu cán bộ có chuyên môn sâu về quản lý bảo tồn biển; thiếu các công cụ giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của khu bảo tồn cũng ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý khu bảo tồn biển.
Theo Tiến sĩ Trần Thị Tuyết, nguồn lực tài chính đầu tư từ ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Cụ thể, từ năm 2006 đến nay, nguồn chi cho sự nghiệp môi trường (bao gồm bảo tồn đa dạng sinh học) ở Việt Nam đạt 1% tổng ngân sách từ nguồn ngân sách trung ương và địa phương. So với GDP, tỷ lệ chi ngân sách cho môi trường chỉ đạt xấp xỉ 0,4% GDP. Tuy nhiên, đến nay gần 60% kinh phí của nhà nước dành cho đa dạng sinh học là đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng và chỉ có 40% được phân bổ cho hoạt động quản lý và bảo tồn.
Tại hội thảo, các đại biểu là các chuyên gia, nhà khoa học trao đổi các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội và tác động của các chương trình/dự án và hoạt động phát triển tới môi trường biển và đa dạng sinh học biển, từ đó đề xuất giải pháp, khuyến nghị Quy hoạch không gian biển (MSP), phân vùng rõ chức năng (bảo tồn, khai thác bền vững, du lịch, phát triển đô thị…) kết hợp tham vấn cộng đồng, mở rộng diện tích bảo vệ, tạo vùng lõi, vùng đệm và hành lang phục hồi sinh thái biển, xây dựng khu bảo tồn biển di động./



