Phải bảo đảm khi Luật được thông qua, quá trình tổ chức thực thi không có vướng mắc.
TTXVN - Theo Tiến sỹ Trần Anh Tuấn, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Hiệp hội Khoa học hành chính Việt Nam, Luật Đất đai năm 2013 đã thể chế chủ trương của Đảng và các quy định Hiến pháp năm 2013 về đất đai, tạo cơ sở pháp lý trong quản lý, sử dụng đất. Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành tạo thành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật khá hoàn chỉnh, thể hiện những quan điểm đổi mới của Đảng phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tiến trình phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, qua gần 10 năm thực thi, bên cạnh những kết quả, Luật Đất đai đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Chính vì vậy, việc sửa đổi các quy định của Luật, bổ sung các chính sách mới là cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp.
Đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), Tiến sỹ Trần Anh Tuấn cho biết, có ý kiến đánh giá một số quy định còn chung chung, chưa thể chế đầy đủ chủ trương của Đảng và giải quyết được các mâu thuẫn, vướng mắc trong đời sống thực tiễn. Còn một số nội dung chồng chéo giữa các quy định pháp luật trong quản lý, sử dụng và đảm bảo quyền sử dụng đất. Chưa thiết lập hoàn chỉnh hệ thống bộ máy quản lý kiểm soát quyền lực; vẫn còn khả năng xảy ra tham nhũng, tiêu cực, lãng phí trong quản lý, sử dụng đất.
Nêu ra 9 vấn đề cần tập trung góp ý liên quan đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thu hồi đất và chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; cơ chế, chính sách tài chính, giá đất…, ông cũng mong các đại biểu thảo luận về vấn đề cải cách hành chính, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, chuyển đổi số trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất, bảo đảm vận hành, quản lý, kết nối, chia sẻ thông tin tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
Điều tiết chênh lệch địa tô
Cho rằng, những nguyên tắc cơ bản của Luật Đất đai, chính sách cơ bản nhất không sửa, việc sửa 240 điều, để lại 45 điều “sửa tủn mủn vào tất cả các điều”, Tiến sỹ Nguyễn Sỹ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội nhận xét “sửa thế này 3 năm nữa không xong”, và chi phí sẽ lớn.
“Một trong những điều kiện quan trọng nhất để có môi trường kinh doanh tốt chính là sự ổn định pháp lý." "Nếu chính sách không có thay đổi thì đề nghị không sửa tủn mủn quá”, ông nói.
Ông đề nghị: Cơ quan thẩm tra là Ủy ban Kinh tế của Quốc hội phải rất quan tâm vấn đề này. “Thể chế vận hành được là nhờ năng lực thực thi của cả bộ máy, nếu không thể chế, không vận hành. Ban hành xong ách tắc thì rủi ro quá lớn”.
Đề cập đến vấn đề chênh lệch địa tô, khi đền bù giá chỉ 1 triệu đồng nhưng quy hoạch làm đất ở xong giá lên đến 50 triệu đồng, Tiến sỹ Nguyễn Sỹ Dũng lưu ý: “Cả hệ thống đang bị thúc đẩy để hưởng chênh lệch địa tô và tạo bất công chính là ở đây”. Chênh lệch địa tô là hệ lụy lớn nhất của xin quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch. Điều này do chính sách mang lại.
Ông nêu thực tế, quanh Hà Nội có khu phố, biệt thự để hoang không ai ở chính là xuất phát từ động lực để hưởng chênh lệch địa tô, hình thành nên những “thành phố ma”. Đây là vấn đề gây phản cảm và tạo động lực méo mó. Tới đây, quan trọng là điều tiết chênh lệch địa tô như thế nào và dùng chênh lệch địa tô đó để giúp cho người bị thu hồi đất đến nơi ở mới bằng hoặc tốt hơn nơi cũ.
Góp ý về quy định đền bù theo giá thị trường, ông lo ngại quy định có thể dẫn đến việc không địa phương nào dám quyết giá đất, sẽ gây ách tắc,...; cho rằng, vẫn phải có cơ chế tính giá. Còn giá thị trường chỉ xuất hiện khi thuận mua vừa bán. Giá thế nào cho công bằng, nhiều khi nhà nước vẫn phải để giá rẻ để lo cho người nghèo. Muốn kinh tế phát triển, phải tạo điều kiện cho người dân thực thi quyền tài sản dễ dàng.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đinh Dũng Sỹ, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp luật Văn phòng Chính phủ cho rằng, có nhiều nội dung của luật chưa rõ, chỉ dừng lại ở những nguyên tắc, quy định mang tính định hướng. Ví dụ giá đất, Nghị quyết 18-NQ/TW yêu cầu phải bảo đảm hài hòa lợi ích của 3 chủ thể, nhưng giá đất ở dự thảo luật đã bảo đảm chưa?
“Nếu chúng ta không xử lý được vấn đề địa tô chênh lệch, thì không thể xử lý được mối quan hệ hài hòa lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư và người có quyền sử dụng đất. Nếu chúng ta chỉ dừng lại ở những quy định mang tính nguyên tắc ở luật này thì không ai biết được có khả thi không”, ông Sỹ nêu quan điểm.
Ngoài ra, ông cho rằng, vấn đề giá đất có 2 loại, một là bảng giá đất, hai là giá đất cụ thể. Hai giá đất này áp dụng trong những trường hợp khác nhau đã được dự thảo luật quy định, nhưng về bản chất là một, vì nó đều được xác định xây dựng trên nguyên tắc thị trường.
Chỉ khác là bảng giá đất này được UBND tỉnh chủ trì xây dựng, trình HĐND tỉnh thông qua và ban hành hàng năm. Còn khi có giao dịch thì phải xác định giá đất cụ thể như khi có dự án, giao đất, giải phóng mặt bằng. “Nhưng dự thảo luật quy định cả hai giá đất đều xác định dựa trên nguyên tắc thị trường thì để hai bảng giá đất để làm gì? ”, ông Đinh Dũng Sỹ băn khoăn.
Theo ông, kinh nghiệm của các nước phát triển có một bảng giá để thực hiện các nghĩa vụ tài chính của xã hội đối với nhà nước. Bảng giá đó về nguyên tắc sát với giá thị trường nhưng không neo theo giá thị trường, và có thể ổn định nhiều năm. Bảng giá đất ở Pháp để tính thuế, nghĩa vụ tài chính cho người dân nhiều năm không đổi.
Còn giá cụ thể chỉ xuất hiện khi có dự án, có việc đền bù, thu hồi và lúc đó phải tôn trọng thị trường, tôn trọng ý kiến thẩm định của cơ quan chuyên môn, đó là các cơ quan quản lý giá.
4 tiêu chí trong thu hồi đất
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Phong Hòa, Giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật và khoa học hành chính (Hiệp hội Khoa học hành chính Việt Nam) đề nghị Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền phải định hình rõ sửa cái gì, mấu chốt nào cần sửa.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Quang Tuyến, Phó Chủ tịch Hội đồng Trường kiêm Trưởng khoa Pháp luật Kinh tế - Trường Đại học Luật Hà Nội đề cập đến Điều 78 quy định 4 trường hợp thu hồi đất nhưng định nghĩa rất chung chung. “Chúng tôi không hiểu được thì chắc dân cũng không hiểu được. Thế nào là dự án phát triển kinh tế, nếu không làm rõ sẽ dẫn đến nguy cơ thu hồi đất tràn lan, dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực”.
Ông đề nghị 4 tiêu chí trong thu hồi đất: Lợi ích cho cả cộng đồng, người dân, xã, huyện, tỉnh, chứ không phải là lợi ích nhóm; đầu tư nhà nước, công tư nhưng phải vì mục đích phục vụ người dân; lợi nhuận phải điều tiết vào ngân sách; có những dự án không nhằm mục đích kinh doanh.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Quang Tuyến cho rằng, việc tham vấn ý kiến người dân về phương án bồi thường tái định cư luật quy định rất hình thức, không nêu ra nguyên tắc đồng thuận tương đối, không khả thi. Ông gợi ý nên đặt ra nguyên tắc 80% coi như đồng thuận, còn 20% thì phải thực hiện theo.
Về nội dung thu hồi đất nông nghiệp của người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, theo ông, trong dự thảo luật chỉ mới tính thu hồi đất của nông dân trong độ tuổi được đào tạo chuyển đổi nghề mà chưa tính đến việc thu hồi của người hết tuổi lao động. Không đào tạo chuyển đổi thì hướng dẫn sử dụng tiền bồi thường thế nào. Ở Trung Quốc hết tuổi lao động thì chỉ trả 1 nửa, 1 nửa gửi tiết kiệm nhưng ở nước ta không đề cập xử lý việc này./.