Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV: Điện chạy bằng than, dầu, khí vẫn được duy trì để bảo đảm an toàn hệ thống
Theo Bộ trưởng Công Thương, dù đắt hơn, phát thải carbon nhiều hơn, trong ngắn hạn chưa có nguồn hoặc giải pháp khác thay thế, điện chạy bằng than, dầu, khí vẫn được duy trì.
Giải trình trước Quốc hội chiều 1/6 về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc đầu tư các nguồn điện tái tạo, được một số đại biểu nêu trong quá trình thảo luận về kinh tế - xã hội, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên khẳng định, cơ chế giá cho các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp như khung giá hiện hành là phù hợp giá thế giới và thực tiễn kinh tế - xã hội trong nước.
Phải đầu tư lớn cho hệ thống truyền tải
Theo Bộ trưởng, điện gió, điện mặt trời phát triển khá mạnh nước ta trong mấy năm gần đây do nhu cầu điện năng tăng nhanh, cơ chế, chính sách khuyến khích của Nhà nước khá hấp dẫn. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn để phát triển điện gió và mặt trời. Tuy nhiên, có một số nghịch lý là nơi có tiềm năng về nắng và gió, lại là nơi có phụ tải thấp. Vì thế, muốn sử dụng nguồn năng lượng này, phải đầu tư khá lớn cho hệ thống truyền tải hoặc lưu trữ điện.
Mặt khác, để duy trì thường xuyên, an toàn hệ thống điện và phát huy hiệu quả năng lượng tái tạo, phải có một số nguồn điện nền ổn định, nghĩa là phải có khả năng phát liên tục 24/24 “để bù đắp cho đến khi không có cái nắng, cái gió, phải có cái đó mà chen vào”.
Tại Việt Nam, điện than, điện dầu, điện khí, sinh khối và thủy điện được xem là nguồn điện nền. Các nước có cả điện hạt nhân. Bởi vậy, dù có đắt hơn, phát thải carbon có nhiều hơn, trong ngắn hạn, chúng ta chưa có nguồn hoặc giải pháp khác thay thế, điện chạy bằng than, dầu, khí vẫn được duy trì huy động để bảo đảm an toàn hệ thống điện.
Bộ trưởng lý giải, than, dầu, khí là những nguyên liệu sơ cấp và thị trường thế giới ấn định giá. Những năm qua, do đứt gãy nguồn cung nên giá cao, dẫn đến giá thành điện năng về dầu và khí thường cao hơn các nguồn điện khác nếu chưa tính phí truyền tải.
Điện gió, mặt trời không tốn tiền mua, nhưng giá thành điện năng phụ thuộc vào giá thành công nghệ và thiết bị. Công nghệ thế giới phát triển rất nhanh, vì thế giá thành thiết bị và công nghệ giảm đi hàng năm, trung bình từ 6 - 8% làm cho giá thành điện năng năng lượng tái tạo chưa tính phí truyền tải và lưu trữ điện giảm đi theo thời gian. Về lâu dài, năng lượng tái tạo, nguồn điện năng có giá rẻ nhất nếu chưa tính phí truyền tải và lưu trữ điện.
Cơ chế giá năng lượng tái tạo là phù hợp
Về cơ chế tính giá năng lượng tái tạo, căn cứ vào Luật Điện lực, Luật Giá và các nghị định của Chính phủ, Bộ Công Thương đã xây dựng khung giá được xác định trên cơ sở số liệu thống kê của 102 nhà máy điện mặt trời, 109 nhà máy điện gió đã ký hợp đồng mua bán điện. Quá trình tính toán, thẩm định khung giá, Bộ có so sánh số liệu của Cơ quan Năng lượng quốc tế, tư vấn GIZ, Viện Năng lượng tư vấn, đặc biệt, đã thực hiện đúng quy trình lấy ý kiến Bộ Tài chính, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, tư vấn về kết quả thẩm định khung giá. Theo số liệu của tổ chức quốc tế, suất đầu tư dự án điện mặt trời nối lưới giai đoạn 2018 - 2021 giảm 11%/năm. Suất đầu tư điện gió trên bờ nối lưới giảm 6,3%/năm.
Đối với Việt Nam, các dự án mặt trời giá FIT 2 ban hành năm 2020 của Chính phủ đã giảm 8% so với giá FIT 1 ban hành năm 2017. Khung giá phát điện theo Quyết định 21 của Bộ Công Thương ban hành tháng 1/2023 giảm khoảng 7,3% so với FIT 2 được ban hành năm 2020.
“Tỷ lệ giảm suất đầu tư của nhà máy điện mặt trời và điện gió đã được tính toán và lấy ý kiến của các chuyên gia thuộc Hội đồng tư vấn. Vì vậy, có thể khẳng định cơ chế giá cho các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp như khung giá hiện hành là phù hợp giá thế giới và thực tiễn kinh tế - xã hội trong nước”, Bộ trưởng khẳng định.
Về vấn đề xử lý đối với dự án điện gió mặt trời không đủ điều kiện áp giá FIT, theo Bộ trưởng, không thể phủ nhận sự lãng phí, nếu hàng chục dự án điện mặt trời và điện gió được đầu tư mà chưa được khai thác, sử dụng. Tuy nhiên, để không lãng phí nhưng cũng không bị xem là hợp thức hóa cái sai, thậm chí là sẽ vi phạm quy định pháp luật hiện hành, cần có chủ trương của cấp có thẩm quyền, sự chấp nhận và nỗ lực của các chủ đầu tư, vào cuộc đồng bộ của các ngành chức năng và chính quyền các địa phương. Bởi hầu hết chủ đầu tư các dự án nêu trên đã chạy đua với thời gian để hưởng giá FIT nên bỏ qua hoặc bỏ sót các khâu, các thủ tục theo quy định của pháp luật, thậm chí là vi phạm các quy định của pháp luật chuyên ngành.
“Chính sách giá FIT đã hết thời hiệu, được thể hiện ngay trong quyết định của Thủ tướng, chứ không phải dừng đột ngột. Đương nhiên không thể được áp giá FIT mà phải theo quy định của Luật Giá, Luật Điện lực và nghị định có liên quan trên cơ sở đàm phán để chia sẻ rủi ro, hài hòa lợi ích giữa nhà nước, người dân và doanh nghiệp”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, cả nước có 85 nhà máy đã ký hợp đồng mua bán điện với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nhưng không đủ điều kiện hưởng giá FIT với tổng công suất 4.736 MW.
Để có thể huy động công suất của các dự án này, tránh lãng phí, bức xúc, căn cứ Luật Giá, Luật Điện lực và các nghị định có liên quan, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công Thương ban hành Thông tư 15, Quyết định 21 quy định phương pháp xác định và khung giá áp dụng cho các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp. Bộ đã có nhiều văn bản đôn đốc các chủ đầu tư hoàn thiện thủ tục, chỉ đạo, hướng dẫn EVN khẩn trương phối hợp với nhà đầu tư thỏa thuận, thống nhất giá điện để sớm đưa các dự án này vào vận hành.
Tuy nhiên, đến ngày 30/3, tức là sau 2 tháng quyết định khung giá có hiệu lực, chỉ có một nhà đầu tư đến nộp hồ sơ. Qua nhiều nỗ lực của Bộ Công Thương, từ gặp gỡ, đối thoại với các chủ đầu tư, các bên liên quan, ban hành các văn bản chỉ đạo EVN, đến 31/5, đã có 59/85 nhà máy với công suất 3.389 MW, chiếm 71,6% số dự án đã nộp hồ sơ tới EVN, trong đó có 50 dự án đang được đề xuất giá tạm thời bằng 50% khung giá để tiếp tục hoàn thiện các thủ tục. Hiện còn 26 nhà máy với công suất là 1.346 MW, chiếm 28,4% số dự án vẫn chưa gửi hồ sơ tới EVN.
Lý do các chủ đầu tư chậm gửi hồ sơ, theo Bộ trưởng, đó là không muốn đàm phán với EVN trong khung giá được Bộ Công Thương ban hành, vì cho là thấp. Lý do thứ hai là có thể chưa hoàn thiện các thủ tục pháp lý hoặc nhà máy ở vị trí khó khăn về truyền tải điện.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị Quốc hội, Chính phủ sớm cho chủ trương và cơ chế tháo gỡ để Bộ Công Thương, các bộ, ngành và địa phương có cơ sở chỉ đạo giải quyết dứt điểm vấn đề trên, tránh lãng phí nguồn lực, bức xúc trong xã hội, bảo đảm hài hòa lợi ích, nhưng các tổ chức và cá nhân thực thi nhiệm vụ này không bị xem là vi phạm pháp luật.
Nhập khẩu điện nhằm bảo đảm an ninh năng lượng
Liên quan đến vấn đề nhập khẩu điện, Bộ trưởng cho biết, chủ trương mua bán điện nước ngoài được quy định tại Luật Điện lực và các nghị định có liên quan. Việc nhập khẩu điện là chiến lược dài hạn dựa trên các mối quan hệ chính trị, quốc phòng, an ninh của Việt Nam đối với các nước láng giềng, nhằm bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong mọi tình huống và được xác định trong quy hoạch phát triển điện lực quốc gia trong từng thời kỳ.
Từ năm 2015, Việt Nam đã là nước nhập khẩu năng lượng tịnh, đã nhập than, dầu để phát điện và sắp tới sẽ nhập khí LNG. Việc nhập khẩu điện đã thực hiện từ nhiều năm trước, với Trung Quốc là từ năm 2010, với Lào từ năm 2016. Nhập khẩu điện của Lào không chỉ là quan hệ kinh tế, mà còn là quan hệ chính trị, ngoại giao và để bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh của đất nước.
Nguồn điện nhập khẩu thời gian qua luôn có trong cơ cấu nguồn điện của các quy hoạch phát triển điện lực quốc gia được duyệt. Tuy nhiên, tỷ lệ nhập khẩu điện còn rất nhỏ, chỉ 572 MW, bằng 0,73% công suất đặt hệ thống năm 2022 và chỉ dành cho các khu vực biên giới. Điều đặc biệt, nhập khẩu điện từ nước ngoài là điện sạch, bởi vì nếu có phát thải thì phát thải ở nơi sản xuất.
“Nhập khẩu điện thời gian qua chỉ để cung cấp cho khu vực biên giới nên rẻ hơn giá điện năng lượng tái tạo trong nước, nếu phải cộng chi phí truyền tải, hao hụt đường dây từ miền Trung, miền Nam ra Bắc lại rất cao. Hệ thống truyền tải điện từ các nhà máy điện trong nước ra biên giới của chúng ta hiện chưa đồng bộ, chưa thuận lợi bằng hệ thống điện của nước bạn đến biên giới của hai nước”, Bộ trưởng cho hay.
Người đứng đầu ngành Công Thương khẳng định, nhập khẩu điện, kết nối lưới điện và trao đổi điện năng với các nước trong khu vực là cần thiết, nhằm đa dạng hóa loại hình nguồn điện, nhất là điện nền, để trong tương lai chúng ta có thể khai thác, phát triển được năng lượng tái tạo trong khi chưa có những nguồn điện nền khác thay thế./.