Giáo dục

Những người "gieo chữ" làm đổi thay giáo dục vùng cao

Thanh Hóa

Giáo dục vùng cao Thanh Hóa đang từng bước khởi sắc, mở ra nhiều cơ hội học tập cho con em các dân tộc thiểu số. Đằng sau những thành quả ấy là sự cống hiến âm thầm của những thầy cô tận tâm... “gieo chữ” nơi những bản làng biên giới.

Thầy giáo Nguyễn Văn Nghi, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Nam Tiến, xã Nam Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Ảnh: Nguyễn Nam/TTXVN

Trong những năm qua, giáo dục vùng cao Thanh Hóa đang từng bước khởi sắc, mở ra nhiều cơ hội học tập cho con em các dân tộc thiểu số. Đằng sau những thành quả ấy là sự cống hiến âm thầm của những thầy cô tận tâm, hy sinh cả tuổi thanh xuân, bám bản, bám lớp để “gieo chữ” nơi những bản làng biên giới heo hút, góp phần thay đổi diện mạo giáo dục vùng cao Thanh Hóa.

Thông thạo tiếng dân tộc để giao tiếp với học sinh

Tốt nghiệp ra trường, năm 1991, chàng trai Nguyễn Văn Nghi khi đó mới tròn 20 tuổi đã tình nguyện lên công tác tại Trường Tiểu học xã Trung Thành, huyện Mường Lát cũ - một điểm trường lẻ ở vùng cao cách nhà gần 200 km. Xã Trung Thành ngày đó còn vô cùng khó khăn, học sinh 100% là người dân tộc Thái, Mông, Mường… Những ngày đầu, thầy trò không hiểu tiếng nhau, mọi việc trở nên trăm bề khó khăn.

Để mang con chữ đến với các em, ngoài giờ học, thầy Nghi kiên trì dạy tiếng Việt cho học sinh, đồng thời học lại tiếng dân tộc từ chính các em. Trong ba thứ tiếng dân tộc, tiếng Mông là khó học nhất, nhưng thầy vẫn quyết tâm bền bỉ luyện tập. Trải qua nhiều năm công tác, giờ đây thầy Nghi đã thông thạo cả ba thứ tiếng và tự tin giao tiếp với học sinh và phụ huynh như người bản địa.

“Khi mới nhận công tác, rào cản lớn nhất với tôi là bất đồng về ngôn ngữ, vì ngoài giờ học các học sinh và phụ huynh đều giao tiếp với nhau bằng tiếng dân tộc. Tuy nhiên, sau gần 3 năm kiên trì học hỏi, tôi đã nói thông thạo được tiếng Mường và Thái. Đến năm 1995, khi tôi vào dạy tại điểm lẻ bản Cang, xã Trung Thành, trong lớp có một số học sinh người dân tộc Mông, nên tôi đã học thêm được 1 ngôn ngữ thứ 3 là tiếng Mông để giao tiếp với học sinh…”.

Quãng đường từ nhà thầy ở xã Sao Vàng đến điểm trường vùng cao gần 200 km. Chưa kể, vùng núi hiểm trở thường xuyên phải đối mặt với mưa bão, sạt lở, lũ ống, lũ quét - những hiểm nguy rình rập trên từng con đường, từng bản làng. Nên mỗi năm, thầy chỉ có thể về thăm nhà vài lần, vào những dịp thật đặc biệt.

Thầy kể, những ngày đầu lên công tác, mỗi ngày chỉ có một chuyến xe từ miền xuôi lên trung tâm huyện, do Công ty Xe khách Thanh Hóa khai thác. Mỗi lần về quê lên trường, thầy phải có mặt từ lúc 1 giờ sáng để mua vé, chuẩn bị cho chặng đường gian nan. Xe cũ, đường xấu, người người chen chúc cùng lợn, gà, gia súc, gia cầm; có hôm phải đi hơn một ngày mới tới nơi. Mọi thứ dường như trăm bề khó khăn, nhưng với lòng tận tụy và quyết tâm, thầy vẫn vượt qua để không ngừng “gieo chữ” đến từng học sinh vùng cao.

Từ năm 2002 đến nay, thầy Nguyễn Văn Nghi đã được luân chuyển công tác tại nhiều điểm trường vùng cao, gắn bó bền bỉ với học sinh nơi biên giới Thanh Hóa. Hiện nay, thầy giáo Nguyễn Văn Nghi làm Hiệu trưởng Trường tiểu học Nam Tiến, xã Nam Xuân (Thanh Hóa).

Dẫn chúng tôi vào thăm căn phòng nhỏ chừng 15m², vừa là nơi làm việc, vừa là nơi ở, thầy Nguyễn Văn Nghi chia sẻ những câu chuyện đời thường của giáo viên vùng cao. Tại ngôi trường này, có hàng chục thầy cô từ miền xuôi lên công tác, nhưng nhà công vụ còn thiếu thốn, chật hẹp, nhiều khi không đủ chỗ cho tất cả. Thầy bày tỏ mong muốn được đầu tư thêm cơ sở vật chất để giáo viên yên tâm công tác, tập trung chăm lo cho học sinh, bởi chính điều kiện sinh hoạt ổn định sẽ góp phần tạo nên những lớp học vững mạnh và bền bỉ nơi vùng cao biên giới…

Thương yêu học sinh như con

Vượt qua con đường ngoằn ngoèo men theo sườn núi với những khúc cua tay áo đầy hiểm trở, chúng tôi mới tới được Trường trung học cơ sở bán trú Mường Lý (Thanh Hóa).

Thầy giáo Hoàng Sỹ Xuân, Hiệu trưởng Trường phổ thông dân tộc bán trú trung học cơ sở Mường Lý, tỉnh Thanh Hóa.
Ảnh: Nguyễn Nam/TTXVN

Đón chúng tôi trong căn phòng nhỏ vừa là nơi làm việc, vừa là chỗ ở tạm bợ, thầy Hoàng Sỹ Xuân - Hiệu trưởng nhà trường chia sẻ: do trường nằm ngay dưới chân núi cao, mỗi mùa mưa bão về, thầy và trò lại thấp thỏm lo âu trước nguy cơ sạt lở. Tháng 9/2024, nhà trường từng phải sơ tán khẩn cấp 154 học sinh từ khu ký túc xá lên các phòng học để đảm bảo an toàn. Mới đây, khi cơn bão số 5 đổ bộ, đất đá từ trên núi tiếp tục tràn xuống, làm khu nhà ở nội trú của hơn 20 giáo viên bị uy hiếp nghiêm trọng. Toàn bộ giáo viên buộc phải rời khu nhà công vụ, người tạm trú tại nhà dân, người thu xếp ở tạm trong các phòng học cũ của trường.

Cuộc sống xa nhà của những giáo viên “cắm bản” vốn đã thiếu thốn trăm bề, lại phải đối mặt thêm hiểm nguy do thiên tai bão lũ nên càng chồng chất gian khó. Thế nhưng, vượt lên tất cả, với tình yêu nghề và tinh thần trách nhiệm, thầy cô nơi đây vẫn kiên trì bám lớp, bám trường, quyết không để việc học của học sinh bị gián đoạn dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Kể về hành trình gần 30 năm gắn bó với học sinh vùng cao Thanh Hóa, thầy Hoàng Sỹ Xuân nhớ lại: Năm 1997, vừa tốt nghiệp sư phạm, thầy đã tình nguyện lên công tác tại Trường trung học cơ sở Mường Chanh – một trong những điểm trường khó khăn nhất của huyện Mường Lát (cũ). Sau đó, thầy tiếp tục luân chuyển công tác đến nhiều điểm trường khác trên địa bàn. Đến nay, thầy đảm nhiệm vị trí Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc nội trú trung học cơ sở Mường Lý. Dù ở bất kỳ môi trường hay cương vị nào, thầy luôn dành tình yêu và trách nhiệm đối với học sinh vùng cao.

“Đã gần 30 năm trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ như in cảm giác lần đầu đặt chân đến điểm trường Mường Chanh - một trong những điểm trường vùng cao biên giới đặc biệt khó khăn của huyện Mường Lát (cũ). Sau hơn một ngày di chuyển qua quãng đường hơn 200km chủ yếu là đồi núi, đèo dốc hiểm trở, trước mắt tôi hiện lên một lớp học lợp bằng tranh tre nứa lá, nằm chênh vênh trên sườn núi. Không điện, không sóng điện thoại, cuộc sống ‘cắm bản’ của thầy và trò khi ấy gần như tách biệt hoàn toàn với bên ngoài, chỉ có núi rừng, cái đói và cái nghèo bủa vây. Trong khoảnh khắc đầu tiên đầy chông chênh đó, đã có lúc tôi muốn bỏ cuộc. Thế nhưng hình ảnh những đứa trẻ vùng cao ăn không đủ no, mặc không đủ ấm mà vẫn khát khao được đến lớp đã níu giữ tôi ở lại. Từ đó, hành trình “gieo chữ” gian nan bắt đầu: tôi phải vượt qua rào cản ngôn ngữ khi thầy không hiểu tiếng dân tộc, trò chưa biết tiếng Việt; phải kiên trì đi từng bản, vận động từng em ra lớp, có khi vượt hàng chục cây số đường rừng trong mưa gió. Mỗi khó khăn tưởng như có thể khiến tôi chùn bước, nhưng chính tình yêu nghề và thương học trò đã giúp tôi bám trụ, tiếp tục gieo từng con chữ nơi lưng chừng núi ấy,” thầy Xuân tâm sự.

Hiện nay, đảm nhiệm vai trò lãnh đạo quản lý Trường phố thông Dân tộc Nội trú trung học cơ sở Mường Lý với hơn 400 học sinh, trách nhiệm của thầy Xuân còn nặng nề hơn bao giờ hết. Ngoài việc lo toan, chỉ đạo công tác giảng dạy, thầy còn phải chăm lo cho từng bữa ăn, từng sinh hoạt hằng ngày của học trò. Với đặc thù của một trường nội trú, thời gian các em ở trường còn nhiều hơn ở nhà, nên thầy vừa là thầy, vừa như người cha, người mẹ tận tụy, luôn đôn đốc, nhắc nhở, quan tâm từng chi tiết nhỏ nhất trong đời sống học sinh. Những buổi tối, khi các em yên giấc trong ký túc xá, thầy mới có thể an tâm ngồi vào bàn làm việc, soạn giáo án, lên kế hoạch giảng dạy và quản lý trường lớp. Từng chi tiết trong ngày, từ việc học, ăn, nghỉ đến sinh hoạt đời thường của các em, đều được thầy chăm sóc tỉ mỉ.

Trăn trở về việc nâng cao chất lượng bữa ăn cho học sinh nội trú, thầy Xuân và các thầy cô trong trường đã ích cực kết nối, phối hợp với các đoàn thiện nguyện và tổ chức xã hội, đưa dự án “Dinh dưỡng học đường” của Quỹ Hy vọng (Hope Foundation) đến với học sinh. Nhờ dự án, bữa sáng của các em đã được cải thiện đáng kể với bánh mì, trứng, mì… giúp học sinh có năng lượng bắt đầu một ngày học tập hiệu quả.

Thầy giáo Hoàng Trọng An, giáo viên nhà trường cho biết, thầy Xuân là người luôn tận tâm với học sinh vùng cao. Không chỉ hoàn thành tốt công tác chuyên môn và quản lý, thầy còn dành nhiều thời gian chăm lo đời sống vật chất lẫn tinh thần cho các em. Ở lứa tuổi còn nhiều biến động tâm lý, không ít học sinh yêu sớm, có ý định bỏ học để lập gia đình. Hiểu rõ điều đó, năm nào cũng vậy, dù chưa hết kỳ nghỉ hè, thầy Xuân vẫn là người tiên phong trở lại trường sớm, đi vào từng bản làng để vận động học sinh tiếp tục đến lớp. Có em định lấy chồng, bỏ học giữa chừng, thầy kiên nhẫn thuyết phục gia đình để em được quay lại trường. Với thầy Xuân, trường học như ngôi nhà thứ hai, còn học sinh chính là con, là em trong gia đình.

Sự hy sinh thầm lặng của các thầy cô giáo cắm bản ở vùng cao Thanh Hóa không chỉ là câu chuyện về những bước chân vượt núi, vượt mưa rừng, mà còn là biểu tượng của tinh thần trách nhiệm và lòng tận tụy với sự nghiệp trồng người. Giữa thiếu thốn trăm bề, họ vẫn kiên trì bám lớp, bám bản, đem con chữ đến với học trò dân tộc thiểu số. Chính những đóng góp lặng lẽ ấy đã và đang tạo nên những đổi thay bền vững cho các bản làng nơi biên viễn, góp phần giữ vững ánh sáng tri thức ở những vùng đất khó khăn nhất của xứ Thanh.

Khiếu Tư- Nguyễn Nam

Xem thêm