Văn hóa

Sơn mài trong nghệ thuật đương đại – Độc bản và chiều sâu sáng tạo

Trải qua nhiều thăng trầm, sơn mài vẫn giữ vị trí quan trọng trong đời sống nghệ thuật Việt Nam, trở thành niềm tự hào văn hóa, đồng thời mở ra tiềm năng lớn về kinh tế, du lịch và sáng tạo.

Sơn mài không chỉ là một chất liệu hội họa độc đáo mà còn là kết tinh của sự khéo léo, sáng tạo và tâm hồn người Việt qua nhiều thế kỷ. Từ những lớp nhựa sơn khai thác ở vùng trung du Bắc Bộ đến những tác phẩm nghệ thuật mang tầm quốc tế, sơn mài đã khẳng định vị thế là một di sản văn hóa đặc sắc của Việt Nam.

Tinh hoa văn hóa và hành trình lịch sử

Sơn mài từ lâu đã trở thành một trong những ngành nghề thủ công mỹ nghệ tiêu biểu, gắn bó chặt chẽ với bản sắc văn hóa Việt Nam. Chất liệu chính làm nên loại hình nghệ thuật này là nhựa cây sơn, được trồng nhiều ở vùng trung du Bắc Bộ. Từ hàng trăm năm trước, nhựa sơn đã được người Việt sử dụng để kết dính gỗ, tre, nứa, làm đồ gia dụng và quét phủ bảo vệ nội thất nhờ độ bền cao cùng khả năng chống ẩm. Đến thế kỷ XVI, nhựa sơn đã vượt ra khỏi biên giới Việt Nam, được thương nhân phương Tây đưa sang châu Âu để chế tác đàn, phủ máy bay, làm véc-ni chống gỉ và cách điện.

Khách tham quan triển lãm tranh sơn mài "Tam giác mạch". 
Ảnh: TTXVN phát

Nhiều nghiên cứu cho thấy nghề sơn xuất hiện từ sớm ở Nhật Bản và Trung Quốc, song Việt Nam cũng sở hữu truyền thống lâu đời với những minh chứng lịch sử rõ rệt. Khi Phật giáo phát triển rực rỡ, sơn mài góp phần tạo nên vẻ đẹp uy nghi cho nhiều công trình chùa chiền, tượng thờ, hoành phi, câu đối, thể hiện sự khéo léo và tinh tế của nghệ nhân Việt.

Bước sang thế kỷ XX, sự kết hợp giữa nghệ nhân truyền thống và các họa sĩ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã mở ra một chương mới cho nghệ thuật sơn mài. Từ chất liệu cổ truyền, các họa sĩ như Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Phạm Hậu, Nguyễn Tường Lân… đã sáng tạo nhiều kỹ thuật mới, kết hợp vỏ trứng, vỏ trai đồng thời mở rộng bảng màu để đưa sơn mài vào hội họa hiện đại, thoát khỏi những màu sắc truyền thống như đỏ, đen, cánh gián. Các tác phẩm nổi tiếng: "Cảnh làng quê", “Hội chùa”, “Bụi tre bóng nước”... không chỉ làm giàu thêm ngôn ngữ tạo hình mà còn khẳng định sơn mài Việt Nam là loại hình nghệ thuật độc đáo.

Tác phẩm tranh sơn mài về Hà Nội.
Ảnh: Thanh Tùng - TTXVN

Trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám và những năm kháng chiến, tranh sơn mài tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Các nghệ sĩ kiên trì thử nghiệm, kết hợp bảng màu, kỹ thuật mới với tinh thần thủ công truyền thống để phản ánh chân thực đời sống, lao động và chiến đấu của dân tộc. Trải qua nhiều thăng trầm, sơn mài vẫn giữ vị trí quan trọng trong đời sống nghệ thuật Việt Nam, trở thành niềm tự hào văn hóa, đồng thời mở ra tiềm năng lớn về kinh tế, du lịch và sáng tạo.

Giữ hồn truyền thống, tỏa sáng giá trị độc bản

Ngày nay, sơn mài không chỉ là sản phẩm thủ công mỹ nghệ mà còn là biểu tượng của sự sáng tạo và tinh hoa văn hóa Việt Nam. Sự tỉ mỉ và công phu trong từng công đoạn khiến mỗi bức tranh sơn mài trở thành một tác phẩm nghệ thuật duy nhất, không thể sao chép nguyên bản, làm tăng thêm sức hút và giá trị kinh tế. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam hiện lưu giữ nhiều kiệt tác sơn mài được công nhận là bảo vật quốc gia như: Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ (Nguyễn Sáng, 1963); Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc (Dương Bích Liên, 1980); Bình phong (Nguyễn Gia Trí, 1939) và Gióng (Nguyễn Tư Nghiêm, 1990). Trong đó nổi bật là tác phẩm “Bình phong” gồm 8 tấm vóc vẽ hai mặt: một mặt là cảnh thiếu nữ trong vườn, mặt kia là phong cảnh vườn cây với dọc mùng, chuối, tre... Bằng kỹ thuật tạo hình phương Tây kết hợp với cách diễn tả phương Đông và bố cục đồng hiện, tác phẩm khắc họa sinh động những mảnh ghép cuộc đời người phụ nữ trong một khu vườn rực rỡ. Với “Bình phong”, Nguyễn Gia Trí đã đưa tranh sơn mài Việt Nam lên một tầm cao mới.

Tại các triển lãm mỹ thuật, sơn mài luôn chiếm vị trí nổi bật, thu hút sự chú ý của giới sưu tầm và yêu nghệ thuật. Họa sĩ trẻ Nguyễn Thành Trung, người tham gia biểu diễn vẽ tranh sơn mài tại Triển lãm thành tựu đất nước chia sẻ rằng, khi kỹ thuật sơn mài Đông Dương ra đời, nghệ sĩ đã mở rộng nhiều kỹ pháp mới như cẩn trứng, khảm trai, phủ bạc, thếp bạc để tăng tính thẩm mỹ mà vẫn giữ nét truyền thống. Dù trẻ tuổi nhưng anh vẫn quyết định theo đuổi dòng tranh này bởi sơn mài mang giá trị nghệ thuật cao, được giới sưu tầm yêu thích. “Khách hàng của dòng tranh này đa phần là những người am hiểu nghệ thuật, yêu thích sự tinh tế, thường tìm kiếm những tác phẩm mang chiều sâu trong từng lớp sơn”, Thành Trung cho biết.

Vẽ tranh sơn mài truyền thống tại Triển lãm thành tựu đất nước. 
Ảnh: Phương Thanh-TTXVN

Với Nguyễn Thành Trung, điều làm nên sức hấp dẫn của sơn mài chính là tính ngẫu hứng và độc đáo của chất liệu. Người họa sĩ phải phủ từng lớp sơn, mài dần để lộ ra lớp bên dưới và chính quá trình mài ấy tạo nên sự bất ngờ, phiêu lưu. Mỗi bức tranh là một hành trình khám phá mới, đòi hỏi người vẽ phải kiên nhẫn, sáng tạo, biết dừng đúng lúc để đạt tới sự hoàn thiện.

Đồng tình với quan điểm của Nguyễn Thành Trung, họa sĩ trẻ Trần Hoàng Quân – sinh viên Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội  chia sẻ rằng, sức hút của sơn mài nằm ở khả năng biểu đạt độc đáo của chất liệu. Tranh sơn mài truyền thống có chiều sâu đặc biệt, được tạo nên từ nhiều lớp màu chồng lên nhau một cách tinh tế. Theo anh, màu sắc chính là thách thức lớn nhất đối với người họa sĩ. Màu của sơn ta – loại sơn đặc trưng làm nên bản sắc tranh sơn mài Việt Nam – thường rực rỡ khi mới vẽ nhưng theo thời gian sẽ khô lại, trở nên trầm lắng hơn, buộc người nghệ sĩ phải tính toán kỹ lưỡng để bức tranh vẫn giữ được tinh thần và vẻ đẹp như mong muốn ban đầu.

Theo tiêu chuẩn truyền thống, tranh sơn mài cần đạt ba yếu tố: phẳng, nhẵn, bóng. “Phẳng” là bề mặt tranh mịn, không gồ ghề; “nhẵn” là khi chạm tay không thấy xước hay rít và “bóng” là bề mặt có thể soi gương. Tuy nhiên, nghệ thuật đương đại cho phép sự phá cách: họa sĩ có thể giữ lại những mảng nhám hoặc tạo hiệu ứng thị giác bằng cách không làm bóng hoàn toàn để tăng chiều sâu cảm xúc và cá tính sáng tạo.

Với sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, sơn mài ngày nay được ví như một “đặc sản” nghệ thuật mang dấu ấn riêng của Việt Nam. Sự độc bản của mỗi tác phẩm khiến sơn mài có giá trị cao cả về nghệ thuật và kinh tế, đồng thời giữ vững vị thế trong dòng chảy mỹ thuật hiện đại. Nhiều nhà phê bình và nghệ sĩ tin rằng, trong bối cảnh hội nhập, sơn mài Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, trở thành biểu tượng văn hóa độc đáo góp phần quảng bá hình ảnh đất nước ra thế giới./.

Phương Thanh

Xem thêm