Đến nay, hệ thống thông tin của ngành đã được đổi mới với các giải pháp tiên tiến, ứng dụng công nghệ 4.0 để tạo thế bứt phá trong phát triển, phù hợp với Chính phủ số và chuyển đổi số.
TTXVN - Nhân Ngày truyền thống ngành Khí tượng thủy văn (3/10), phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã phỏng vấn Giáo sư, Tiến sỹ Trần Hồng Thái, Tổng cục trưởng Tổng cục Khí tượng thủy văn (Bộ Tài nguyên và Môi trường) về kết quả đạt được của ngành, những giải pháp thời gian tới nhằm góp phần giảm thiểu rủi ro thiên tai, từng bước hiện đại hóa ngành trong kỷ nguyên số; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
*Phóng viên: Trong bối cảnh tình hình thiên tai ngày càng gia tăng, phức tạp, khó lường, xin ông đánh giá những kết quả nổi bật ngành Khí tượng thủy văn?
*Giáo sư, Tiến sỹ Trần Hồng Thái: Tổng cục Khí tượng thủy văn tập trung hoàn thiện thể chế chính sách, tăng cường năng lực quản lý nhà nước về lĩnh vực khí tượng thủy văn; đẩy mạnh hoàn thiện các quy trình, quy định nghiệp vụ trong công tác điều tra cơ bản; dự báo phục vụ cộng đồng, thông tin lưu trữ tư liệu, giám sát biến đổi khí hậu, hợp tác quốc tế; đồng thời, tăng cường năng lực cho công tác thanh tra, kiểm tra, điều chỉnh kịp thời các hoạt động khí tượng thủy văn theo quy định của pháp luật.
Theo đó, Tổng cục Khí tượng thủy văn đã chủ trì xây dựng: Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khí tượng thủy văn đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 25/9/2021; Quyết định số 1970/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển Ngành Khí tượng thủy văn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Ngành đang trình Thủ tướng Chính phủ xem xét “Đề án hiện đại hóa ngành khí tượng thủy văn đến năm 2025 và thời kỳ 2026 - 2030”, đồng thời, đang hoàn thiện Quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, tiến tới trình Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thủ tướng Chính phủ Quy hoạch quan trọng này.
Ngành tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 18/2021/QĐ-TTg ngày 22/4/2021 quy định về dự báo, cảnh báo, truyền tin thiên tai và cấp độ rủi ro thiên tai. Đây là Quyết định cao nhất được điều chỉnh, bổ sung tích hợp nhiều văn bản ban hành trước đó phù hợp với yêu cầu thực tế của công tác dự báo, cảnh báo và truyền tin thiên tai hiện nay. Bên cạnh đó là những thông tư, quy chuẩn, quy định kỹ thuật điều chỉnh riêng về hoạt động khí tượng thủy văn.
Trong công tác dự báo tình hình thời tiết, thiên tai, ngành tăng cường thực hiện các bản tin dự báo, cảnh báo chuyên đề phục vụ công tác chỉ đạo điều hành, tổ chức hoạt động sự kiện và đời sống xã hội; đổi mới công tác dự báo thời tiết theo hướng hiện đại, tiệm cận với các nước tiên tiến trên thế giới. Đến nay, hệ thống thông tin của ngành đã được đổi mới với các giải pháp tiên tiến, ứng dụng công nghệ 4.0 để tạo thế bứt phá trong phát triển, phù hợp với Chính phủ số và chuyển đổi số.
Việc nghiên cứu ứng dụng thiết bị chuyên ngành tiên tiến đang từng bước được thử nghiệm nhằm duy trì hoạt động ổn định các hệ thống thông tin khí tượng thủy văn. Các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp có sự gia tăng nghiên cứu mới về trí tuệ nhân tạo (AI) nhằm phục vụ thiết thực cho công tác hiện đại hóa ngành hướng tới phục vụ hiệu quả cho nhiệm vụ của đơn vị và xã hội. Cùng với đó, hợp tác quốc tế không ngừng được mở rộng, góp phần đáng kể cho việc tăng cường kỹ thuật, tài chính, trao đổi thông tin, đào tạo cán bộ và công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước.
*Phóng viên: Chiến lược phát triển ngành Khí tượng thủy văn đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành, phê duyệt ngày 23/11/2021. Đến thời điểm này, Chiến lược đã được Ngành triển khai như thế nào, thưa ông?
*Giáo sư, Tiến sỹ Trần Hồng Thái: Bám sát chỉ đạo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Khí tượng Thủy văn đã đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các ngành, các cấp và nhân dân trong công tác khí tượng thủy văn; gắn với đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến thực hiện Chỉ thị số 10- CT/TW của Ban Bí thư.
Theo đó, đơn vị đã thực hiện đồng bộ việc khai thác, sử dụng, lồng ghép thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn, giám sát biến đổi khí hậu trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các Bộ, ngành, địa phương; tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách pháp luật về khí tượng thủy văn.
Tổng cục đang xây dựng Quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhằm rà soát, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Luật Quy hoạch, đồng thời, phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn theo hướng tự động hoàn toàn và thực tiễn công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, phòng, chống thiên tai, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và ứng phó với biến đổi khí hậu. Quy hoạch đang hoàn thiện theo ý kiến góp ý của Hội đồng thẩm định Quy hoạch để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.
Tổng cục đã lập và trình các cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt một số đề án, dự án trọng điểm nhằm hiện đại hóa, tự động hóa mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn quốc gia, hệ thống thu nhận thông tin và công nghệ dự báo. Tổng cục tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại trong dự báo, cảnh báo bão, mưa lớn, dông, lốc, sét, sạt lở đất nhằm nâng cao năng lực, chất lượng dự báo, cảnh báo thiên tai; xây dựng cơ sở dữ liệu khí tượng thủy văn để tích hợp vào hệ thống cơ sở dữ liệu ngành tài nguyên và môi trường; bảo đảm cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời với độ tin cậy chính xác cao, đặc biệt là thông tin, dữ liệu về nguy cơ xảy ra các hiện tượng khí tượng thủy văn nguy hiểm, bất thường. Trong quá trình triển khai Chiến lược, Ngành đã kế thừa kết quả của Chiến lược thời kỳ trước cũng như các nghiên cứu trong và ngoài nước. Do đó, các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn về hoạt động khí tượng thủy văn đã cụ thể hơn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu của công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn ngày càng cao. Tần suất các hiện tượng khí tượng thủy văn nguy hiểm xuất hiện ngày càng nhiều và khắc nghiệt hơn; cùng với đó, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi Ngành phải hoạt động sát thực tế hơn khi mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn, hệ thống thu nhận thông tin, công nghệ dự báo chưa đủ điều kiện theo kịp tình hình thực tiễn. Mặt khác, Ngành còn gặp nhiều khó khăn trong lồng ghép với các mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường hoặc với các mạng lưới quốc gia khác. Kinh phí cấp cho nhiệm vụ phát triển, hiện đại hóa Ngành Khí tượng thủy văn cũng còn hạn chế.
*Phóng viên: Đầu tư cho khí tượng thủy văn là đầu tư cho phát triển và cần đi trước một bước. Vậy, Ngành có giải pháp gì để tiếp tục phát triển, đủ năng lực cung cấp thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn kịp thời; đáp ứng và góp phần quan trọng đối với công tác phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế - xã hội?
*Giáo sư, Tiến sỹ Trần Hồng Thái: Trước hết, Ngành tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách và cơ cấu tổ chức, bộ máy bằng việc rà soát sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khí tượng thủy văn; xây dựng, điều chỉnh hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy trình kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật liên quan đến hoạt động khí tượng thủy văn. Đồng thời, củng cố tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển của ngành.
Ngành tăng cường đầu tư thiết bị, công nghệ quan trắc, thu thập và xử lý số liệu tự động đối với mạng lưới trạm khí tượng bề mặt, khí tượng trên cao, thủy văn, hải văn; bổ sung mạng lưới trạm đo mưa tự động, đặc biệt tại những nơi thường xảy ra lũ quét, sạt lở đất, ngập lụt như miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Đồng thời, ngành ứng dụng phương tiện bay không người lái để thám sát các hiện tượng khí tượng nguy hiểm, số liệu vệ tinh quan trắc trái đất, công nghệ siêu âm, công nghệ ra đa, công nghệ laser, camera kỹ thuật số trong lĩnh vực khí tượng thủy văn.
Ngành tích hợp, lồng ghép giữa mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia với các trạm quan trắc trong ngành Tài nguyên và Môi trường theo hướng đồng bộ, liên thông với các trạm khí tượng thủy văn chuyên dụng của các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân; nghiên cứu, phát triển hệ thống giám sát, quản lý và đánh giá hoạt động quan trắc khí tượng thủy văn hiện đại, theo hướng tự động; nâng cấp hệ thống phân tích thí nghiệm môi trường không khí và môi trường nước.
Cùng với đó, ngành hoàn thiện hệ thống tích hợp dữ liệu tập trung; phát triển, hoàn thiện hệ thống phần mềm nghiệp vụ dùng chung phục vụ quản lý và cung cấp, chia sẻ dữ liệu khí tượng thủy văn; xây dựng hệ thống hỗ trợ dự báo khí tượng thông minh; hệ thống dự báo tác động; hệ thống chuyên dụng phân tích và dự báo bão, áp thấp nhiệt đới; phát triển hệ thống dự báo mô hình số trị có đồng hóa các loại số liệu bề mặt và viễn thám; tập trung nâng cao chất lượng dự báo định lượng mưa ở các thời hạn dự báo từ cực ngắn đến dự báo trước từ 2-3 ngày. Cùng với đó, xây dựng, cập nhật bộ số liệu chuẩn khí hậu quốc gia và giám sát biến đổi khí hậu; tăng mức chi tiết các dự báo sớm, dài hạn, diễn biến khí hậu quy mô mùa đến 1 năm.
Trong đánh giá tổng thể và phân vùng chi tiết rủi ro thiên tai khí tượng thủy văn, ngành tiếp tục cập nhật tài nguyên khí hậu, tài nguyên nước, xây dựng hệ thống giám sát và cảnh báo lũ quét, sạt lở đất thời gian thực tế cho các khu vực vùng núi, trung du, chi tiết tới cấp huyện, xã; tích hợp, đồng bộ các mô hình dự báo thủy văn trên các lưu vực sông, xây dựng công cụ cảnh báo, dự báo chi tiết phạm vi ngập lụt, độ sâu ngập lụt vùng hạ lưu các lưu vực sông và hạ lưu các hồ chứa.
Đồng thời, nghiên cứu ứng dụng giải pháp công nghệ hiện đại trong dự báo, cảnh báo bão, mưa lớn, dông, lốc, sét, lũ, lũ quét, sạt lở đất; triển khai các sản phẩm dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn truyền tải đa dạng trên nền tảng công nghệ số…
*Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông./.