Xã hội

80 năm Thông tấn xã Việt Nam: Tiếng nói của những người yêu nước ở miền Nam

TP. Hồ Chí Minh

Dưới tiêu đề có ghi “Tiếng nói chính thức của những người yêu nước miền Nam Việt Nam”. Kể từ đây, Thông tấn xã Giải phóng đã đồng hành với các lực lượng ở khắp miền Nam, duy trì mạch máu thông tin thông suốt trong mọi điều kiện.

 

Trong hành trình 80 năm xây dựng và phát triển của Thông tấn xã Việt Nam, có một bộ phận không thể tách rời trong suốt 65 năm, đó là Thông tấn xã Giải phóng. Ra đời và thực hiện sứ mệnh thông tin vẻ vang, duy trì mạch thông tin thông suốt từ chiến trường miền Nam ác liệt đến đông đảo bạn đọc trong nước và quốc tế, Thông tấn xã Giải phóng đã có nhiều đóng góp chung cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

Nhân dịp kỉ niệm 80 năm ra đời TTXVN, phóng viên Cơ quan thường trú tại Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chùm 2 bài viết giới thiệu những đóng góp quan trọng của Thông tấn xã Giải phóng trong tiến trình lịch sử của TTXVN song hành cùng đất nước.

Bài 1: Tiếng nói của những người yêu nước miền Nam Việt Nam

Trong công cuộc kháng chiến cứu quốc, phóng viên của TTXVN đã có mặt ở những địa bàn nóng bỏng, gian khổ nhất để ghi lại những hình ảnh chiến đấu dũng cảm, hào hùng của quân và dân ta. Trong ảnh: Đoàn xe của Thông tấn xã Việt Nam vượt Trường Sơn vào chi viện cho chiến trường Nam bộ tháng 3/1973. 
Ảnh: Minh Lộc - TTXVN

Sau một thời gian ngắn chuẩn bị về lực lượng và phương tiện, đúng 19 giờ ngày 12/10/1960, tại khu rừng Chàng Riệc (Tây Ninh), qua chiếc máy phát sóng 15W, Thông tấn xã Giải phóng đã phát đi bản tin đầu tiên. Bản tin tiếng Việt có tiêu đề là Giải phóng xã (GPX), phát đối ngoại với hô hiệu tiếng Anh là LPA phát trên sóng điện 31m. Dưới tiêu đề có ghi “Tiếng nói chính thức của những người yêu nước miền Nam Việt Nam”. Kể từ đây, Thông tấn xã Giải phóng đã đồng hành với các lực lượng ở khắp miền Nam, duy trì mạch máu thông tin thông suốt trong mọi điều kiện, kể cả những thời điểm khắc nghiệt nhất.

*“Dòng điện không bao giờ tắt”

Trong lời ra mắt, Thông tấn xã Giải phóng trịnh trọng thông báo cho quốc dân đồng bào và bè bạn trên thế giới: “Thông tấn xã Giải phóng là cơ quan phát ngôn và thông tấn chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, có nhiệm vụ phổ biến tin tức và kinh nghiệm đấu tranh phong phú của đồng bào ở khắp nơi, phản ánh uy thế ngày càng lớn của phong trào cách mạng và sự suy sụp của tập đoàn thống trị miền Nam”.

Hai tháng sau đó, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Thông tấn xã Giải phóng đã nhanh chóng chuyển toàn bộ văn kiện của Mặt trận ra Việt Nam Thông tấn xã, từ đó phát ra thế giới để thông báo về một tổ chức chính trị có quyền trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam Việt Nam để cổ vũ, tập hợp mạnh mẽ mọi tầng lớp nhân dân miền Nam yêu nước chống Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

Nhớ về buổi phát bản tin đầu tiên của Thông tấn xã Giải phóng trong ngày 12/10/1960 tại căn cứ Chàng Riệc, điện báo viên Đoàn Văn Thiều, nguyên Phó Văn phòng Thông tấn xã Giải phóng, kể: Lúc đó, đơn vị mới thành lập, cơ sở vật chất chưa có gì. Những người có mặt tại buổi phát tin đầu tiên đó chỉ có anh Ba Đỗ (Đỗ Văn Ba), anh Dựng (Phùng Văn Dựng), anh Song (Đặng Văn Song), anh Khuê (Võ Văn Khuê), anh Phia (Trương Văn Phia). Bản tin đầu tiên của Thông tấn xã Giải phóng được những điện báo viên phát bằng một chiếc máy phát Trung Quốc. Bàn ghế cũng chưa có nên mọi người đều ngồi trên một chiếc tăng vải. Lúc đó, ngoài anh Ba Đỗ thì những người còn lại đều là người mới, chưa biết gì về kỹ thuật điện báo. Tuy nhiên, từ sau hôm đó, các bản tin của ta được liên tục được truyền đi.

Hai phóng viên nhiếp ảnh TTXGP Nguyễn Chí Anh và Nông Quang Khanh xem tài liệu ở dưới hầm bí mật Củ Chi trong chuyến đi công tác tháng 3/1973. 
Ảnh: Phong Vân – TTXVN

Trong giai đoạn 1960 - 1972, Thông tấn xã Giải phóng liên tục thay đổi căn cứ từ chiến khu Tây Ninh, sang Mã Đà (chiến khu Đ, Đồng Nai), có lúc ở giáp biên giới hoặc tạm lánh sang đất bạn Campuchia, rồi trở về chiến khu Lò Gò (Tây Ninh) khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ở Đông Dương. “Trong quá trình di chuyển dài ngày, trên đường hành quân, khi đến giờ phát tin, các kỹ thuật viên dừng lại đặt máy thu phát, phát xong bản tin ra Tổng xã tại Hà Nội là lại thu dọn để tiếp tục hành quân. Khi địch càn vào căn cứ, cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên Thông tấn xã Giải phóng cầm súng chiến đấu để bảo vệ căn cứ, phương tiện làm việc, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt với tổng xã Hà Nội và các địa phương”, nguyên điện báo viên Thông tấn xã Giải phóng Đoàn Văn Thiều chia sẻ.

Cùng trải qua giai đoạn này, nhà báo Thanh Bền, nguyên phóng viên Thông tấn xã Giải phóng nhìn nhận, cực nhất là phải dời căn cứ khiến mọi công việc, mọi sinh hoạt đều bị xáo trộn. Tuy nhiên, có một việc không được xáo trộn là phát tin phải giữ vững mệnh lệnh “Dòng điện không bao giờ tắt” của Thông tấn xã Giải phóng. “Suốt thời gian trong chiến khu, tôi đã có 8 lần di chuyển khỏi căn cứ. Vất vả nhất là anh em điện báo viên và kỹ thuật viên sửa chữa máy móc luôn phải khiêng vác máy nổ nặng hàng tấn, cộng thêm lỉnh kỉnh dụng cụ đồ nghề bằng cách cõng trên đôi vai, băng rừng, lội suối bất kể ngày lẫn đêm, khi mưa bão”, nhà báo Thanh Bền nhớ lại.

*Vượt khó hoàn thành nhiệm vụ

Đoàn xe của Thông tấn xã Việt Nam chi viện cho Thông tấn xã Giải phóng năm 1973. 
Ảnh: Minh Lộc - TTXVN

Theo ông Đoàn Văn Thiều, công việc của người điện báo viên cơ quan báo chí giai đoạn đó rất nguy hiểm vì gắn với tín hiệu, máy móc thu phát thông tin nên việc đảm bảo giữ bí mật, an toàn rất được ưu tiên. “Nếu không có sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các cán bộ trong đơn vị và ở từng vị trí như người làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ, quan sát từ trên cao, người khẩn trương quay máy phát điện, người thu - phát thông tin sẽ không thể hoàn thành được nhiệm vụ”, ông Đoàn Văn Thiều chia sẻ.

“Các tổ, ê kíp này luôn đi chung và không thể thiếu nhau trong suốt quá trình hoạt động viết và truyền tin về chiến khu R, nhất là phóng viên tin và điện báo viên. Riêng phóng viên ảnh có thể tác nghiệp độc lập, rồi xuống hầm tráng phim và gửi về chiến khu R bằng đường giao liên”, nhà báo Hà Huy Hiệp, nguyên điện báo viên Thông tấn xã Giải phóng cho biết.

Trong điều kiện khó khăn về trang thiết bị, “thiếu trước hụt sau”, liên tục phải di chuyển căn cứ những kỹ thuật viện, điện báo viên đã luôn cố gắng, tìm kiếm những giải pháp tối ưu để thực hiện việc thu phát tin một cách tốt nhất, không bị “đứt sóng” với căn cứ, Tổng xã ở Hà Nội.

Trước khi có máy teletype hay máy telephoto tăng cường vào miền Nam, lực lượng điện báo viên Thông tấn xã Giải phóng giai đoạn từ năm 1960 – 1972 đã phải sử dụng máy gõ ma-níp cùng máy phát điện quay tay (gọi là máy ragono) để phát tín hiệu morse. Chia sẻ cụ thể về máy phát điện được sử dụng, nguyên điện báo viên Thông tấn xã Giải phóng Đoàn Văn Thiều cho biết, cán bộ kỹ thuật, điện báo viên phải quay máy bằng tay rất vất vả để có được dòng điện thu - phát thông tin. Một bản tin dài khoảng 400 chữ cũng khiến người quay ragono mỏi nhừ đôi tay vì phải quay liên tục. Vừa làm vừa “mò mẫm” tìm hiểu các thiết bị, máy móc và đã có lần ông Thiều bị điện giật ngã bật ngửa khi thử điện bằng tay ở chiếc máy phát điện 15 W do không có dụng cụ để kiểm tra. Sự việc khiến mọi người một phen hốt hoảng.

“Lúc đó cái máy phát điện Trung Quốc nặng lắm. Chúng tôi đều là thanh niên trai tráng mà mỗi người chỉ quay được chừng 20 phút là mồ hôi đổ ra như tắm. Phải thay nhau mà quay mới đảm bảo dòng điện ổn định”, ông Đoàn Văn Thiều nhớ lại.

Kỹ thuật viên TTXGP điều khiển dàn máy Teletype. Trong hơn 15 năm ra đời và phát triển dưới bom đạn kẻ thù (1960–1975), TTXGP phải sơ tán trụ sở chính hàng chục lần nhưng vẫn luôn duy trì “mạch máu” thông tin. 
Ảnh: Tư liệu TTXGP

Nhẳm khắc phục sự thiếu hụt trang thiết bị cũng như hạn chế của trang thiết bị máy móc, đội ngũ kỹ thuật viên, điện báo viên đã mày mò, sáng tạo, cải tiến để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Để đỡ phải quay tay, nhà báo Đoàn Văn Thiều và đồng nghiệp khi đó đã có sáng kiến chế thêm giá đỡ, chỗ ngồi và tay nắm phía trên để chuyển máy sang đạp bằng chân, vừa đỡ tốn sức, đỡ mỏi, vừa có dòng điện ổn định hơn.

Với sự quyết tâm, nỗ lực của người "lính" thông tấn, từ chiếc “ma-níp gỗ” và những cuốn vở tái sử dụng nhiều lần, các điện báo viên tập sự đã nhanh chóng trở thành điện báo viên thành thạo công việc. Ông Đoàn Văn Thiều chia sẻ: “Chỉ sau 6 tháng, chúng tôi đã thành thạo việc nhận phát tin, còn thu-nhận tin thì chậm hơn một chút. Cơ bản là đến 8-9 tháng sau thì anh em ai cũng thành thạo. Sau này anh em lứa điện báo viên đầu tiên đó đều trưởng thành, trở thành những trưởng đài các địa phương”.

Với khẩu hiệu: “Làn sóng điện không bao giờ tắt” trong bất cứ tình huống nào dù đang chống càn hay trên đường di chuyển căn cứ, cán bộ nhân viên Thông tấn xã Giải phóng cùng với phóng viên Việt Nam Thông tấn xã có mặt ở chiến trường miền Nam vẫn giữ đúng các phiên làm việc để bảo đảm mạch máu thông tin liên lạc thông suốt./.

Hoàng Anh Tuấn

Tin liên quan

Xem thêm