Các chuyên gia hàng đầu thế giới lĩnh vực nông nghiệp thảo luận và đưa ra lời giải cho tương lai nông nghiệp giảm phát thải tại tọa đàm “Đổi mới trong Nông nghiệp và Thực phẩm”, diễn ra chiều 3/12, trong khuôn khổ Tuần lễ Khoa học - Công nghệ VinFuture 2025.
“Làm thế nào để tăng sản lượng thực phẩm theo hướng bền vững, có khả năng chống chịu? Làm thế nào để cung cấp lương thực cho 10 tỷ người trên toàn cầu khi ta muốn hạn chế nguyên liệu đầu vào cũng như giảm sử dụng tài nguyên đất, nước?” Những câu hỏi này được các chuyên gia hàng đầu thế giới lĩnh vực nông nghiệp thảo luận và đưa ra lời giải tại tọa đàm “Đổi mới trong Nông nghiệp và Thực phẩm”, diễn ra chiều 3/12, trong khuôn khổ Tuần lễ Khoa học - Công nghệ VinFuture 2025.
Giáo sư Pamela Christine Ronald, từ Đại học California, Davis (Hoa Kỳ), thành viên Hội đồng Giải thưởng VinFuture, nhà khoa học từng đoạt Giải đặc biệt VinFuture dành cho nhà khoa học nữ năm 2022 cho biết, cần tạo ra cây trồng có lợi cho môi trường, giảm lượng khí thải, từ đó dần nâng cao sản lượng. Ngành Nông nghiệp đóng góp tỷ lệ khá lớn lượng khí thải nhà kính. Cây lúa phát thải khí metan, chiếm 12% tổng phát thải toàn thế giới. Trong môi trường đất ngập nước (kị khí), rễ lúa bị thiếu oxy, tạo điều kiện cho các vi sinh vật kị khí phát triển và sản sinh ra metan.
“Chúng tôi nghiên cứu cây lúa mang gen PSY 1 và nhận thấy cây có bộ rễ phát triển nhanh so với cây truyền thống. Khi thử nghiệm trong các điều kiện tốt, giống này giảm tới 40% phát thải metan”, Giáo sư Pamela Christine Ronald cho biết.
Từ nghiên cứu này, Giáo sư Pamela Christine Ronald cho rằng, cần nghiên cứu sử dụng di truyền thực vật để phát triển các giống lúa mới có khả năng giảm thiểu phát thải metan. Trọng tâm là phân tích cộng đồng vi sinh vật trong đất và xác định các gene lúa kiểm soát chất tiết từ rễ và sự liên kết với vi sinh vật đất, từ đó sẽ tạo ra cây trồng có lợi cho môi trường, giảm lượng khí thải.
Cuối cùng, cần xác định các vi khuẩn tập hợp carbon vào các bể chứa carbon hữu cơ ổn định trong đất; cần các công cụ mới để định lượng những thay đổi carbon hữu cơ trong đất về lâu dài trong điều kiện thực địa. Các thử nghiệm cần được mở rộng quy mô để đánh giá khả năng tái tạo trên các loại đất và hệ thống cây trồng đa dạng.
Giáo sư Ermias Kebreab đến từ Đại học California, Davis (Hoa Kỳ) nhấn mạnh vai trò của chăn nuôi thông minh trong việc nâng cao năng suất, dinh dưỡng và tính tuần hoàn, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, đặc biệt ở các nước Nam bán cầu.
Ông cũng giới thiệu các giải pháp sử dụng phụ phẩm nông nghiệp địa phương như chè rừng Việt Nam, rong biển và lá, bã sắn để chế biến thức ăn cho bò sữa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, bổ sung rong biển vào khẩu phần thức ăn giúp giảm 30%–90% lượng khí metan mà vẫn đảm bảo giá trị dinh dưỡng và năng suất sữa. Việc cho ăn chính xác và phân tích dinh dưỡng là yếu tố then chốt để đạt hiệu quả tối ưu.
Tiến sỹ Nadia Radzman, Phòng thí nghiệm Sainsbury, Đại học Cambridge (Anh), chia sẻ về vai trò của cây họ đậu và công tắc sinh học trong nông nghiệp thích ứng khí hậu. Cây họ đậu giúp cố định nitơ tự nhiên nhờ quan hệ cộng sinh với vi sinh vật trên rễ, giảm nhu cầu phân đạm hóa học. Công nghệ sinh học, như sử dụng CEP peptides, có thể tăng số lượng nốt sần và cải thiện sinh lý rễ, đồng thời hỗ trợ tái phân bổ carbon cho quả và hạt. MiRNA đóng vai trò điều chỉnh năng lượng, giúp cây sử dụng hiệu quả tùy giai đoạn phát triển...
Chia sẻ các xu hướng công nghệ tiên tiến, thảo luận về thách thức kỹ thuật, kinh tế và xã hội, cũng như khám phá cơ hội hợp tác và ứng dụng thực tiễn nhằm hướng tới một nền nông nghiệp thông minh, hiệu quả và bền vững, các chuyên gia nhận định, nhu cầu lương thực dự kiến tăng mạnh 100% vào năm 2050, trong khi sản phẩm cây trồng chủ lực có xu hướng giảm, có tới 50% sản lượng cây trồng không được sử dụng làm thực phẩm, đặt ra các thách thức về an ninh lương thực và hiệu quả sử dụng tài nguyên nông nghiệp.
Bên cạnh đó, nông nghiệp có tác động mạnh đến môi trường, hiệu ứng khí nhà kính làm ô nhiễm nước, đất trồng do sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón, phá hủy môi trường sống các loài tự nhiên, mất đa dạng sinh học, suy thoái và xói mòn đất. Do đó, cần tăng sản lượng thông qua dịch vụ hệ thống, nông nghiệp tái tạo và nông lâm kết hợp, tăng chất lượng đất, kiểm soát sâu bệnh… lấp đầy khoảng trống về sản lượng. Đa dạng sinh học, xen canh, thâm canh, canh tác hữu cơ… là một phần giải pháp nâng cao sản lượng./.


