Từ năm 1961 đến tháng 12 năm 1974, đã có nhiều đợt cán bộ giáo dục và giáo viên với tổng cộng hơn 3.000 nhà giáo đã tình nguyện và được Bộ Giáo dục điều động đi vào chiến trường miền Nam.
Sáng 22/8, tại Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức “Gặp mặt đại diện nhà giáo được điều động làm công tác giáo dục tại miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9, 80 năm thành lập Bộ Giáo dục và Đào tạo (1945-2025).
Phát biểu tại buổi gặp mặt, thay mặt lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các nhà giáo đi B, một lực lượng đặc biệt, là những “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa – giáo dục” tại vùng giải phóng ở miền Nam.
Thứ trưởng cho biết: Từ đầu những năm 1960, nhu cầu về cán bộ giáo dục và giáo viên ở vùng giải phóng ở miền Nam trở nên cấp bách, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Nhà nước và nhân dân miền Nam ruột thịt, hàng nghìn cán bộ, giáo viên, sinh viên mới tốt nghiệp của các trường sư phạm ở miền Bắc đã viết đơn tình nguyện, sẵn sàng rời xa gia đình, tạm biệt bục giảng thân thuộc, nhận nhiệm vụ lên đường vào chiến trường miền Nam.
Theo các tài liệu lưu trữ, từ năm 1961 đến tháng 12 năm 1974, đã có nhiều đợt cán bộ giáo dục và giáo viên với tổng cộng hơn 3.000 nhà giáo đã tình nguyện và được Bộ Giáo dục điều động đi vào chiến trường miền Nam (ký hiệu gọi là đi B).
Sự có mặt của đội ngũ nhà giáo đi B trên chiến trường miền Nam, trong suốt 15 năm (từ 1961 – 1975), cùng với các nhà giáo kháng chiến, nhà giáo yêu nước ở miền Nam đã góp phần xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục cách mạng trong cuộc chiến đấu lâu dài, bền bỉ của nhân dân ta nhằm đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập tự do, thống nhất nước nhà. Họ đã góp phần to lớn trong nhiệm vụ xóa nạn mù chữ, bổ túc văn hóa, nâng cao dân trí cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ở các vùng giải phóng; đào tạo thế hệ trẻ có kiến thức văn hóa, khoa học, có lòng yêu nước để tiếp nối sự nghiệp đấu tranh giành độc lâp, tự do, thống nhất đất nước; đấu tranh chống địch trên mặt trận văn hóa, giáo dục, chống phá mọi âm mưu chia rẽ dân tộc, phá hoại hòa bình, thống nhất đất nước.
Nhờ đó, chỉ trong vòng 4 tháng sau ngày 30/4/1975, toàn bộ hệ thống trường học ở các tỉnh miền Nam đã nhanh chóng được tái lập, khai giảng bình thường – một thành công vang dội, mang dấu ấn ngành Giáo dục.
Thứ trưởng chia sẻ: Hiện nay, ngành giáo dục Việt Nam có hơn 1,2 triệu nhà giáo. Đất nước đang ở thời kỳ hội nhập sâu rộng, khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ nhưng cũng nhiều thách thức: đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng, thu hẹp khoảng cách vùng miền, chuẩn bị nguồn nhân lực cho kỷ nguyên số, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Vì vậy, Thứ trưởng mong muốn, mỗi thầy cô hôm nay sẽ học tập, noi gương các thế hệ nhà giáo lão thành, phát huy tinh thần yêu nước, sẵn sàng nhận nhiệm vụ khó khăn; nêu cao đạo đức nhà giáo; đổi mới sáng tạo, kết hợp tri thức hiện đại với giá trị truyền thống; truyền cảm hứng, giúp học trò nuôi dưỡng khát vọng, tình yêu quê hương.
Thứ trưởng nhấn mạnh, truyền thống chỉ thật sự sống nếu được tiếp nối. Mỗi nhà giáo hôm nay hãy là một “nhà giáo đi B” của thời bình – sẵn sàng đi đến những nơi khó khăn nhất, gánh vác những việc gian khổ nhất vì học trò, vì đất nước.
Tại buổi gặp mặt, đại diện các nhà giáo đi B đã chia sẻ ký ức về những chuyến hành quân đi bộ vượt dãy Trường Sơn với nhiều gian khổ, hiểm nguy dường như không có giới hạn. Họ ra đi để lại sau lưng gia đình với bố mẹ già, vợ trẻ và các con thơ. Nhiều thầy, cô giáo trẻ chưa kịp xây dựng cuộc sống gia đình, để lại người yêu thương với lời hứa hẹn ngày trở về. Trên vai họ đeo chiếc ba lô nặng hơn 30 kg là hành trang cá nhân, gạo và thực phẩm. Họ đi bộ hàng tháng trời, ăn cơm nắm, uống nước suối, ngủ võng rừng, vừa đi vừa phải tránh bom đạn của kẻ thù và các hiểm họa bất thường khác. Cuộc hành quân đó phải đi từ 2 - 3 tháng, thậm chí phải mất 4 - 5 tháng, tùy theo cung đường của mỗi đoàn.
Tới nơi nhận nhiệm vụ, họ phải tự làm tất cả mọi việc cho cuộc sống của bản thân như dựng nhà, đào hầm trú ẩn ở trong rừng, vận chuyển lương thực… Có nơi phải đi vận động nhân dân cho con em đi học, vận động bà con hỗ trợ dựng lớp học bằng tranh tre, nứa lá; tìm kiếm các phương tiện dạy học từ bảng đen đến bàn ghế đều phải tùy cơ ứng biến, linh hoạt phù hợp với từng nơi, từng chỗ...
Nhiều câu chuyện về những tấm gương nhà giáo tiêu biểu đã được kể lại trong chương trình. Điển hình như cô giáo Lê Thị Bạch Cát, quê ở Nghệ An, nguyên giáo viên Trường Thể dục Thể thao Từ Sơn, Bắc Ninh. Cô đi B cuối năm 1964, nhận nhiệm vụ tại Thành đoàn Sài Gòn - Gia Định, vừa là giáo viên, vừa làm công tác Đoàn. Trong chiến dịch Mậu Thân (1968), cô tham gia lực lượng biệt động vũ trang nội thành Sài Gòn. Trong một trận đánh, bị địch bao vây, cô đã quyết tử ở lại chiến đấu, anh dũng hy sinh để đồng đội rút lui an toàn. Nhiều nhà giáo đi B khác đã chiến đấu và anh dũng hy sinh, nằm lại vĩnh viễn nơi chiến trường khi đang làm nhiệm vụ dạy học, trên đường đi công tác.
Hay như thầy giáo Lý Hữu Tấn, nguyên giảng viên khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, cùng người học trò của mình là Trần Nguyên Phò. Trong một lần cùng đi công tác tại tỉnh Bến Tre, hai thầy trò đã bị địch bắt, đưa về Trại giam Phú Quốc. Tại đây, hai thầy trò đã tổ chức dạy học trong tù, không chỉ dạy Văn mà dạy cả Lịch sử, Địa lý, Toán … ở trình độ cấp 1, cấp 2. Để mở được nhiều lớp hơn, hai thầy còn mở cả lớp “Sư phạm”, nghĩa là tìm các “tù binh Việt cộng” có trình độ tốt nghiệp Phổ thông để bồi dưỡng phương pháp dạy học, gợi ý nội dung để các thầy giáo đó mở lớp dạy ở các lán trại khác. Những câu chuyện ấy là những mảnh ghép tạo nên bản anh hùng ca của nhà giáo Việt Nam.
Nhân dịp này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã vinh danh, tri ân 80 nhà giáo đi B, đại diện cho các thế hệ được điều động làm công tác giáo dục tại miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thể hiện lòng biết ơn và sự ghi nhận với công lao đóng góp của các thầy, cô cho sự nghiệp chung của toàn ngành Giáo dục./.