Chính sách và phát triển

Hội nhập CPTPP, EVFTA: Ngành dệt may ứng xử với rào cản phòng vệ thương mại

CPTPP và EVFTA mang lại cơ hội lớn cho dệt may Việt Nam với ưu đãi thuế quan, nhưng cũng đi kèm các rào cản khắt khe về quy tắc xuất xứ, môi trường và lao động.

Ngành dệt may Việt Nam tận dụng tốt các ưu đãi từ hiệp định EVFTA và CPTPP
Ảnh: Hồng Đạt - TTXVN 

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) cùng với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), là hai FTA có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ trước tới nay. 

EVFTA có hiệu lực từ ngày 1/8/2020 đã mở ra những cơ hội về hàng rào thuế quan lớn cho ngành dệt may – một trong những ngành hàng chủ lực xuất khẩu sang thị trường EU được đánh giá là được hưởng lợi nhiều. Tuy nhiên, để được hưởng những ưu đãi này, dệt may Việt Nam bắt buộc phải tuân thủ những quy tắc xuất xứ rất nghiêm ngặt của EVFTA, quy tắc “từ vải trở đi – fabric forward”.

CPTPP có hiệu lực từ ngày 14/01/2019 tạo cơ hội cho sản phẩm dệt may Việt Nam tiếp cận các thị trường mà Việt Nam hiện nay chưa có FTA. Bên cạnh các cam kết về thuế quan và các thủ tục xuất - nhập khẩu còn có các cam kết về quy tắc, thể chế, minh bạch hóa, chống tham nhũng, các quy định tạo môi trường kinh doanh thuận lợi như mở cửa thị trường dịch vụ giúp giảm chi phí cho doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.

Quy tắc xuất xứ hàng dệt may trong CPTPP thể hiện mức độ khó cao nhất khi áp dụng quy tắc ba công đoạn “từ sợi trở đi – yarn forward” có nghĩa là tất cả các công đoạn sản xuất hàng dệt may từ sợi trở đi. Nếu không thích ứng, doanh nghiệp dệt may có thể vừa bỏ lỡ lợi thế FTA, vừa bị vướng vào các vụ kiện phòng vệ thương mại. 

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu may mặc trung bình của Việt Nam trong 5 năm qua đạt trên 10%. Có được kết quả khả quan như trên, nhiều chuyên gia đánh giá các hiệp định thương mại tự do (FTA) là một trong những trợ lực chính cho ngành dệt may Việt Nam. Với 17/19 FTA đã có hiệu lực như CPTPP, EVFTA…, hàng dệt may Việt Nam được hưởng các mức thuế suất ưu đãi, thậm chí về 0% tại nhiều thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Canada, Hàn Quốc…, giúp tăng sức cạnh tranh so với các đối thủ chưa có FTA với các thị trường này.

Theo Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS), tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may sang các nước thuộc hiệp định CPTPP là khoảng 16% trên tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Bên cạnh việc mở rộng thị trường xuất khẩu, các quy tắc xuất xứ tại một số hiệp định như EVFTA và CPTPP còn thúc đẩy doanh nghiệp dệt may Việt Nam gia tăng đầu tư vào sản xuất sợi, vải trong nước hoặc tăng cường nhập nguyên phụ liệu từ các nước trong hiệp định để được hưởng các ưu đãi thuế quan. Qua đó, giảm sự phụ thuộc vào các thị trường truyền thống, tăng tính ổn định của chuỗi cung ứng.

Nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu quy tắc xuất xứ của EVFTA.
Ảnh: Trần Việt - TTXVN 

Ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) cho biết, Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu dệt may lớn nhất của Việt Nam, chiếm hơn 1/3 tổng kim ngạch năm 2024. Trong khi đó, thị trường châu Âu đang ngày càng siết chặt các tiêu chuẩn liên quan đến phát triển bền vững, buộc doanh nghiệp phải đối mặt với áp lực cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ mạnh như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Indonesia. Đáng lo ngại hơn, dòng vốn đầu tư vào các khâu then chốt nhưng còn thiếu hụt như dệt vải và nhuộm, vốn đóng vai trò quyết định trong việc đáp ứng quy tắc xuất xứ của các FTA, cũng có xu hướng sụt giảm.

Trước bối cảnh khó khăn, nhiều doanh nghiệp đã chủ động lên kế hoạch đầu tư, liên doanh trong lĩnh vực dệt vải để từng bước tự chủ nguồn nguyên liệu, đảm bảo minh bạch chuỗi cung ứng – điều kiện bắt buộc để thâm nhập sâu vào thị trường Hoa Kỳ và các thị trường cao cấp khác.

Ông Thân Đức Việt, Tổng Giám đốc Công ty May 10 chia sẻ, để duy trì các đơn hàng của thị trường chủ lực, mở rộng thêm các thị trường mới, doanh nghiệp đã nỗ lực tái cấu trúc, cải tiến công nghệ, đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử nhằm tối ưu hóa chi phí sản xuất và vận hành.

Để giúp các doanh nghiệp ngành dệt may tận dụng tốt các ưu đãi thuế suất, vượt qua các phòng vệ thương mại của các FTA, Chính phủ cần chú trọng và quy hoạch vùng trồng tơ, sợi, bông cũng như cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu tơ, sợi, bông từ nước ngoài. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ phù hợp, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất và xuất khẩu ngành dệt may đơn giản, thuận tiện hơn, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần chú trọng đến chương trình xanh hóa ngành dệt may Việt Nam để đảm bảo được các vấn đề về môi trường được nêu trong thỏa thuận của các FTA, giúp ngành dệt may của Việt Nam nhanh chóng đáp ứng được các yêu cầu khắt khe.

Trong bối cảnh thị trường biến động nhanh chóng và khách hàng ngày càng khắt khe hơn về tiêu chuẩn sản phẩm, tốc độ giao hàng…, ông Trương Văn Cẩm lưu ý doanh nghiệp cần chủ động ứng dụng công nghệ, tự động hóa và chuyển đổi xanh từ khâu nguyên liệu đến quy trình sản xuất, để gia tăng lợi thế cạnh tranh, thu hút nguồn đơn hàng và mở rộng vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu./.

PV

Tin liên quan

Xem thêm