Sáng 4/11, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Viện Cây lương thực, thực phẩm; Sở Nông nghiệp và Môi trường Thanh Hóa tổ chức Hội thảo Giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị sản xuất sắn bền vững.
Phát biểu tại hội thảo, ông Hoàng Văn Hồng - Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia cho biết, hội thảo là dịp để liên kết “bốn nhà” (nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân) trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, kết nối các tác nhân trong chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ, đồng thời đề xuất các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả, phát triển ngành hàng sắn theo hướng bền vững, gắn với Đề án phát triển bền vững ngành hàng sắn đến năm 2030, tầm nhìn 2050 được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phê duyệt tại Quyết định số 1115/QĐ-BNN-TT ngày 17/4/2024.
Theo ông Hoàng Văn Hồng, sắn là một trong số các cây trồng được đưa vào danh mục sản phẩm cây trồng chủ lực quốc gia, góp vai trò vô cùng quan trọng vào việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và góp phần nâng cao đời sống cho người nông dân. Sản xuất sắn tại Việt Nam luôn duy trì ổn định trên 500.000 ha với sản lượng từ 10-10,7 triệu tấn củ tươi mỗi năm. Sản phẩm tinh bột sắn, sắn lát đang trở thành 1 trong 7 mặt hàng xuất khẩu quan trọng và đang mang về kim ngạch xuất khẩu đạt từ 1,4 - 1,5 tỷ USD/năm, đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu sản phẩm sắn sau Thái Lan. Hiện cả nước có khoảng trên 140 nhà máy chế biến tinh bột sắn, với tổng công suất thiết kế 13,4 triệu tấn củ tươi/năm, tổng công suất thực tế 9,3 triệu tấn/năm. Các nhà máy hầu hết đều được đầu tư bài bản, đang trong quá trình cập nhật và nâng cao công nghệ chế biến sản phẩm từ sắn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành hàng sắn vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức như: liên kết giữa nông dân trồng sắn với nhà máy chế biến còn yếu, sản xuất còn phân tán, nhỏ lẻ; giống sắn thoái hóa, bệnh khảm lá sắn vẫn là mối đe dọa nghiêm trọng, gây giảm năng suất và chất lượng; công nghệ chế biến và ứng dụng khoa học kỹ thuật chưa đồng đều giữa các vùng… Trong khi yêu cầu thị trường ngày càng cao về chất lượng, truy xuất nguồn gốc, an toàn và phát triển xanh.
Tại hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận một số nội dung như: Định hướng phát triển ngành hàng sắn theo đề án 1115 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường; Giải pháp quy hoạch vùng nguyên liệu, ứng dụng khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa và quản lý bền vững; Giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị sắn bằng tăng cường liên kết giữa nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp - nhà khoa học; Phát triển mô hình bao tiêu, hợp đồng sản xuất; thúc đẩy chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, các đại biểu và người dân được trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và được giới thiệu các mô hình điểm về sản xuất sắn bền vững, nhân giống sạch bệnh, canh tác bền vững trên đất dốc, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất sắn…
Theo Tiến sỹ Đinh Công Chính, Phó Trưởng phòng Cây lương thực - Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), để phát triển cây sắn theo hướng bền vững, các địa phương cần tập trung vào bốn yếu tố then chốt gồm: trồng đúng thời vụ, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật chăm sóc, tăng cường dinh dưỡng đất - đầu tư thâm canh và đảm bảo nguồn nước tưới hợp lý. Từ đó có chính sách thu hút, phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp đề định hướng nguyên liệu; hỗ trợ phát triển các tổ hợp tác, hợp tác xã... để xây dựng mối liên xây dựng vùng kết bền vững gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Ông Chính cho biết, theo Đề án phát triển ngành hàng sắn đến năm 2030, tầm nhìn năm 2050, Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định phát triển ngành sắn theo hướng hiệu quả - bền vững - hiện đại, liên kết chặt chẽ trong sản xuất và tiêu thụ sắn trên cơ sở lấy doanh nghiệp làm trung tâm, hợp tác xã và tổ hợp tác là cầu nối, nông dân là chủ thể sản xuất.
Mục tiêu đến năm 2030, diện tích trồng sắn ổn định 480.000 - 510.000 ha, sản lượng củ tươi đạt 11,5-12,5 triệu tấn; trong đó, sản lượng sắn tươi dùng để chế biến sâu một số sản phẩm (tinh bột, ethanol, mỳ chính,...) chiếm khoảng 85%; diện tích trồng sắn sử dụng giống đúng tiêu chuẩn chất lượng đạt 40-50%; diện tích trồng sắn áp dụng quy trình canh tác bền vững đạt 50%; kim ngạch xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn đạt 1,8 - 2 tỷ USD, hướng tới 2,5 tỷ USD vào năm 2050. Đồng thời giảm phát thải, nâng cao chất lượng và hiệu quả chuỗi giá trị. Đây là định hướng quan trọng, giúp ngành sắn Việt Nam chuyển mình từ sản xuất truyền thống sang sản xuất xanh, thông minh và bền vững hơn.
Được biết trong 5 năm trở lại đây, Trung tâm Khuyến nông quốc gia đã triển khai nhiều dự án về xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất sắn bền vững, đảm bảo năng suất, chất lượng trên khắp các tỉnh, thành trồng sắn trọng điểm trên cả nước và đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực. Các mô hình canh tác sắn bền vững, sản xuất trên đất dốc, cho năng suất tăng từ 10–30%, hiệu quả kinh tế tăng 15-25% so với sản xuất đại trà; Một số giống sắn mới sạch bệnh, năng suất cao như STB1, HN3, HN5, HN97, HN80 đã được nghiên cứu, nhân rộng... Các quy trình nhân giống sạch bệnh, quy trình phòng trừ bệnh khảm lá sắn, các quy trình canh tác sắn cũng được xây dựng, ứng dụng trong thực tế sản xuất. Các địa phương như Thanh Hóa, Nghệ An, Tây Ninh, Gia Lai đã xây dựng mô hình liên kết “4 nhà” hiệu quả, gắn vùng nguyên liệu với nhà máy chế biến. Với sự đồng hành của nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và người nông dân, ngành sắn Việt Nam sẽ vươn tới mục tiêu phát triển bền vững, vừa đảm bảo sinh kế cho nông dân, vừa nâng tầm giá trị xuất khẩu, góp phần hiện thực hóa mục tiêu nông nghiệp xanh, sinh thái và kinh tế tuần hoàn.
Trong khuôn khổ hội thảo, các đại biểu, nhà khoa học và người sản xuất đã đi thăm một số nhà máy chế biến sắn và vùng sản xuất sắn nguyên liệu trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa./.


