Văn hóa

Văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số là “tài nguyên hiếm”

Một phiên chợ vùng cao, một lễ hội mừng lúa mới, không gian nhà dài, tiếng cồng chiêng vang vọng giữa đại ngàn hay điệu xòe giữa đêm lửa nương… tất cả đều là trải nghiệm sống động...

Trình diễn lễ hội cấp sắc của đồng bào Dao.
Ảnh: Danh Lam - TTXVN

Khi được hỏi về việc có nên xây dựng, phát triển các mô hình phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch hay không, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội cho rằng việc gắn phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số với phát triển du lịch không chỉ nên làm, mà còn là một hướng đi tất yếu trong bối cảnh chúng ta đang tìm kiếm những mô hình phát triển bền vững, dựa trên bản sắc và nguồn lực văn hóa nội sinh. Trên thế giới, nhiều quốc gia đã chứng minh rằng văn hóa và du lịch, khi được kết hợp một cách thông minh, có thể tạo ra những giá trị kép: vừa bảo tồn di sản, vừa mở ra sinh kế mới cho cộng đồng.

Trong trường hợp Việt Nam, văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số vốn rất giàu sắc màu và khác biệt – thứ mà ngành du lịch hiện đại gọi là “tài nguyên hiếm”. Chính nét độc đáo ấy tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt với du khách trong nước và quốc tế. Một phiên chợ vùng cao, một lễ hội mừng lúa mới, không gian nhà dài, tiếng cồng chiêng vang vọng giữa đại ngàn hay điệu xòe giữa đêm lửa nương… tất cả đều là trải nghiệm sống động mà không một sản phẩm du lịch nhân tạo nào có thể thay thế.

Nghệ nhân người Khơ Mú bên khung cửi dệt túi. 
Ảnh: Hương Thu-TTXVN

Khi du lịch gắn với văn hóa, người dân trở thành chủ thể của hoạt động phát triển. Họ không chỉ biểu diễn, mà còn truyền dạy, giới thiệu, tái hiện những giá trị nguyên bản của tộc người mình. Điều này giúp cộng đồng có thêm nguồn thu nhập để quay trở lại đầu tư vào việc gìn giữ di sản. Nhiều mô hình du lịch cộng đồng ở Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Đắk Lắk… đã chứng minh điều này một cách rõ ràng: người dân thay đổi cuộc sống nhờ chính di sản của mình.

Tuy nhiên, điều quan trọng là phải làm đúng cách. Nếu gắn văn hóa với du lịch theo hướng khai thác quá mức, thương mại hóa thô thiển, thì di sản có thể bị làm giả, bị sân khấu hóa, bị tách khỏi đời sống thực. Nhưng nếu chúng ta biết quy hoạch bài bản, có sự tham gia thực chất của cộng đồng, tôn trọng tri thức bản địa, bảo đảm các giá trị nguyên gốc, và xem du lịch như động lực để bảo tồn chứ không phải mục tiêu duy nhất, thì mô hình này sẽ đem lại lợi ích rất lớn.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho rằng đây chính là con đường phù hợp với chiến lược của Đảng và Nhà nước về phát triển bền vững văn hóa – con người Việt Nam; phù hợp với xu thế thế giới; phù hợp với khát vọng nâng tầm du lịch văn hóa thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trong kỷ nguyên hội nhập, khi du lịch trải nghiệm và du lịch văn hóa lên ngôi, văn hóa dân tộc thiểu số hoàn toàn có thể trở thành “thương hiệu quốc gia”, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam, đồng thời tạo sinh kế ổn định cho đồng bào ngay trên mảnh đất quê hương mình.

Theo Báo cáo mới nhất của Bộ Văn hóa, giai đoạn 2021 - 2025 (chỉ riêng dự án 6 "Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch" Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi) các đơn vị chức năng phối hợp với địa phương đã bảo tồn, phục dựng và phát huy 139 lễ hội truyền thống, trong đó nhiều lễ hội đã trở thành di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Qua đó, di sản không chỉ được gìn giữ mà còn trở thành sản phẩm du lịch độc đáo. Thay vì chỉ dừng lại ở gìn giữ, bảo tồn, văn hóa các dân tộc thiểu số giờ đây đang từng bước được chuyển hóa thành sản phẩm du lịch đặc sắc, giúp tạo sinh kế, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng sống cho người dân.

Cùng với đó, hơn 50 làng, bản, buôn truyền thống được bảo tồn, đầu tư xây dựng 69 điểm đến du lịch tiêu biểu, từng bước hình thành mô hình bản văn hóa - du lịch, điểm văn hóa - du lịch, mở ra hướng phát triển kinh tế bền vững cho đồng bào. 29 di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia tiêu biểu được hỗ trợ tu bổ, tôn tạo. Đây là sự gìn giữ ký ức thiêng liêng của dân tộc, đồng thời là điểm nhấn thu hút khách du lịch. Hơn 700 câu lạc bộ văn hóa dân gian và 5.760 đội văn nghệ truyền thống đã được thành lập, duy trì hiệu quả. Điều này góp phần tạo nên sự chuyển biến sâu sắc trong đời sống kinh tế - xã hội của đồng bào. Hạ tầng văn hóa được cải thiện; đời sống tinh thần được nâng cao. Đồng bào ngày càng thêm tự hào về nguồn cội, phát huy tri thức bản địa, tạo việc làm, tăng thu nhập nhờ gắn văn hóa với du lịch./.

(Bài viết có sự phối hợp thực hiện của Vụ Pháp chế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)

Thanh Giang

Tin liên quan

Xem thêm