Thành công của Đề án là một bước đột phá quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu địa hóa tại Việt Nam.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng và những biến động ngày càng gia tăng của môi trường tự nhiên, việc xây dựng bộ dữ liệu nền địa hóa đa mục tiêu quốc gia ngày càng trở nên cần thiết đối với Việt Nam.
Theo các nhà khoa học Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, "nền địa hoá" là thuật ngữ khoa học-phản ánh biến đổi tự nhiên về hàm lượng của nguyên tố hoá học, hợp chất của nó trong môi trường bề mặt. Nền địa hoá đa mục tiêu rất quan trọng vì nó có thể giúp xác định trạng thái tự nhiên của môi trường; giúp giải quyết các vấn đề môi trường; có thể giúp tìm kiếm các mỏ khoáng sản; là cơ sở khoa học để định hướng phát triển một số ngành kinh tế đặc biệt là nông nghiệp và cung cấp thông tin quan trọng nghiên cứu địa chất y học. Nền địa hoá cũng được sử dụng làm điểm tham chiếu để đánh giá biến động môi trường theo thời gian.
Từ năm 2021, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã triển khai Đề án khoa học trọng điểm cấp Viện Hàn lâm “Xây dựng nền địa hóa đa mục tiêu quốc gia lãnh thổ Việt Nam”. Đây là nhiệm vụ đầu tiên tại Việt Nam nhằm xây dựng hệ thống dữ liệu địa chất, khoáng sản toàn diện và khoa học, phục vụ nhiều mục tiêu khác nhau từ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường đến nghiên cứu khoa học cơ bản.
Giáo sư, Tiến sỹ Trần Tuấn Anh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, chủ nhiệm Đề án khoa học cho biết, từ 2021-2024, giai đoạn 1 của Đề án được thực hiện tại 6 tỉnh biên giới phía Bắc với tên nhiệm vụ “Xây dựng nền địa hóa đa mục tiêu quốc gia cho 6 tỉnh biên giới phía Bắc”. Tham gia thực hiện Đề án còn có sự phối hợp giữa Viện Địa chất và Viện Địa lý (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) với Viện Thổ nhưỡng Nông hóa (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) và các địa phương nơi triển khai Đề án.
Các nhà khoa học đã tập trung khảo sát và đánh giá nền địa hóa của 6 tỉnh biên giới phía Bắc: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh với tổng diện tích tự nhiên là 46.640 km², chiếm 14,2% diện tích tự nhiên của cả nước, trong đó có 2 vùng trọng điểm là huyện Bát Xát (Lào Cai), nơi tập trung các hoạt động khai thác khoáng sản và Ba Chẽ (Quảng Ninh) nơi phát triển các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao).
Một thành tựu đáng kể của Đề án trên là việc xây dựng bộ bản đồ nền địa hóa với hơn 250 bản đồ trên tỷ lệ 1:250.000 và hơn 500 bản đồ trên tỷ lệ 1:50.000, đi kèm với các thuyết minh chi tiết, giúp tạo ra cơ sở vững chắc cho nghiên cứu khoa học và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Đáng chú ý, các nhà khoa học đã phát triển thành công cơ sở dữ liệu nền địa hóa dưới dạng nền tảng đa ứng dụng (Web-GIS), cùng với ứng dụng trên các thiết bị thông minh (điện thoại, ipad,..), giúp việc tra cứu thông tin trực tuyến trở nên dễ dàng. Điều này không chỉ nâng cao khả năng nghiên cứu mà còn mở rộng các cơ hội ứng dụng trong nhiều lĩnh vực từ quản lý môi trường đến sử dụng hợp lý tài nguyên.
Trong quá trình nghiên cứu, Đề án cũng xây dựng được bộ dữ liệu địa hóa phong phú, toàn diện, hệ thống cho các môi trường đất tầng mặt (tầng A), đất tầng dưới (tầng C), nước mặt, nước dưới đất và trầm tích dòng cho 6 tỉnh biên giới phía Bắc (Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh). Bộ dữ liệu địa hóa bao gồm hồ sơ và kết quả phân tích của 9.233 mẫu các loại, trong đó đất tầng A là 3.813 mẫu; đất tầng C là 2.275 mẫu; nước mặt là 1.083 mẫu; nước dưới đất là 804 mẫu và trầm tích dòng là 1.258 mẫu.
Giáo sư, Tiến sỹ Trần Tuấn Anh khẳng định, thành công của Đề án là một bước đột phá quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu địa hóa tại Việt Nam, được thể hiện qua việc thử nghiệm ứng dụng cơ sở dữ liệu nền địa hóa vào nhiều lĩnh vực như: Đánh giá chất lượng nước, nghiên cứu mức độ phong hóa, khí hậu và định hướng tìm kiếm khoáng sản…Những ứng dụng này không chỉ góp phần bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên mà còn tạo ra các giá trị thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Từ kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đã công bố 7 bài báo trên tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục SCIE và 5 bài báo trên các tạp chí trong nước; đào tạo 4 Thạc sỹ; hỗ trợ đào tạo 1 Tiến sỹ, cùng với đó là nhiều sản phẩm quan trọng khác (gồm bộ số liệu địa hóa phong phú, các bộ bản đồ nền địa hóa đơn nguyên tố và đa nguyên tố kèm thuyết minh chi tiết, cùng tài liệu hướng dẫn sử dụng dữ liệu địa hóa cho 6 tỉnh biên giới phía Bắc).
"Trên cơ sở những thành công ban đầu này, nhóm tác giả kỳ vọng sớm được triển khai giai đoạn tiếp theo của Đề án “Xây dựng nền địa hóa đa mục tiêu quốc gia lãnh thổ Việt Nam” để hoàn thiện bộ dữ liệu nền địa hóa cho toàn lãnh thổ một cách đồng bộ, phục vụ hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Trong giai đoạn tới, nhóm tác giả sẽ tiếp tục tiến hành nghiên cứu đối với các địa phương còn lại trên toàn lãnh thổ Việt Nam để tiến tới hoàn thành cơ sở dữ liệu về nền địa hóa đa mục tiêu trên toàn quốc, kết hợp với việc hoàn thiện, chuyển giao ngay các kết quả nghiên cứu và phần mềm, các ứng dụng tới các cấp quản lý từ Trung ương tới địa phương, góp phần phát triển kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc", Giáo sư, Tiến sỹ Trần Tuấn Anh cho biết.
Đánh giá cao Đề án, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Trung Minh, Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các ngành khoa học trái đất cho biết, kết quả của Đề án đã mang lại những đột phá quan trọng trong lĩnh vực địa chất, khoáng sản tại Việt Nam, khi lần đầu tiên xây dựng thành công quy trình đánh giá nền địa hóa đa mục tiêu quốc gia và phát triển cơ sở dữ liệu địa hóa hiện đại, tích hợp công nghệ Web-GIS và ứng dụng trên thiết bị thông minh. Những thành tựu này không chỉ mang ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn to lớn, tạo nền tảng vững chắc cho việc mở rộng nghiên cứu địa chất, khoáng sản trên phạm vi toàn quốc mà còn mở ra nhiều hướng ứng dụng quan trọng như quy hoạch kinh tế - xã hội bền vững và nghiên cứu liên ngành./.
- Từ khóa:
- dữ liệu địa chất
- khoáng sản
- kinh tế - xã hội