Môi trường

Doanh nghiệp với trách nhiệm giảm phát thải ròng về "0"

Cam kết đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050 của Việt Nam thể hiện quyết tâm mạnh mẽ chung tay cùng các nước bảo vệ Trái đất - ngôi nhà chung.

Để thực hiện cam kết đó, cộng đồng doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng khi vừa là chủ thể chịu tác động của biến đổi khí hậu, vừa là đối tượng quan trọng trực tiếp tham gia, chuyển các thách thức thành cơ hội, tạo ra nguồn lực thúc đẩy công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, triển khai các kế hoạch góp phần giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy tăng trưởng xanh. 

Việt Nam cam kết phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050. Ảnh: TTXVN

* Xu thế tất yếu, không thể đảo ngược

Biến đổi khí hậu đã thực sự trở thành thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ 21, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của các quốc gia, trong đó có Việt Nam.Việc thực hiện các cam kết tại COP 26, đặc biệt là cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ là xu thế tất yếu, không thể đảo ngược.

Triển khai thực hiện kịp thời các cam kết này sẽ mang lại lợi ích lớn và lâu dài, nước ta cần tận dụng cơ hội này để thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng carbon thấp.

Chuyển đổi năng lượng, thực hiện phát thải ròng bằng “0” là lựa chọn mang tính chiến lược của Việt Nam. Chính phủ đã và đang thực hiện các bước đi nhanh, chắc chắn. Điều này tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp, góp phần tăng lợi thế cạnh tranh về dài hạn.

Các doanh nghiệp cần chuẩn bị cả về nhân lực có đủ khả năng thực hiện kiểm kê khí nhà kính và xây dựng kế hoạch giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của doanh nghiệp mình.

Phó cục trưởng Cục biến đổi khí hậu Phạm Văn Tấn
Ảnh: TTXVN

Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) Phạm Văn Tấn cho biết, để tham gia vào quá trình chuyển đổi này, các doanh nghiệp cần tránh hoặc rút nhanh ra khỏi các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh sử dụng nhiều năng lượng, phát thải nhiều khí nhà kính; chuẩn bị sẵn sàng để tham gia thị trường carbon, đồng thời tăng cường hợp tác với các cơ quan chính phủ để xây dựng và thực hiện các biện pháp giảm phát thải hoặc xây dựng tiêu chuẩn, hệ số phát thải đối với sản phẩm kinh doanh của mình.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương
Ảnh: TTXVN

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương đánh giá, nhiều tổ chức trong nước, quốc tế đưa ra đánh giá rất lạc quan về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2022-2023 và xa hơn, nhưng trong hoạt động sản xuất - kinh doanh thực tế, hơn ai hết, chính các doanh nghiệp, nhất là khối doanh nghiệp xuất khẩu, đều nhận thấy rằng người tiêu dùng ngày càng khắt khe hơn trong lựa chọn sản phẩm, dịch vụ.

Người tiêu dùng ngày càng ưu tiên chọn các sản phẩm, dịch vụ xanh, nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ bầu khí quyển. 

Tại châu Âu, Hoa Kỳ và nhiều nền kinh tế khác đã thực hiện các hàng rào thuế quan để kiểm soát và điều chỉnh biên giới phát thải carbon đối với hàng nhập khẩu sử dụng nhiều năng lượng, đồng thời khuyến khích quá trình khử carbon trong sản xuất trong nước.

Thực tiễn này buộc các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung phải thay đổi để đáp ứng được các tiêu chuẩn hàng rào thuế carbon từ các thị trường lớn, giữ vững vị thế trên thương trường quốc tế.

Là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề bởi biến đổi khí hậu, Việt Nam đang nỗ lực để vừa ứng phó với biến đổi khí hậu, vừa phát triển kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh phục hồi và phát triển kinh tế sau đại dịch COVID-19, bảo đảm cuộc sống ngày càng tốt hơn cho mọi người dân, đồng thời đóng góp có trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế thực hiện mục tiêu giảm phát thải.

Để nền kinh tế đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững, đồng thời bảo vệ được môi trường sống, giảm phát thải khí nhà, cộng đồng doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc hiện thực hóa mục tiêu đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050 mà nước ta đã cam kết. 

* Sẵn sàng tham gia thị trường carbon

Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp tham gia vào phát triển xanh, có cơ hội tiếp cận với nguồn tài chính xanh để đầu tư vào các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững doanh nghiệp.

Phát triển thị trường carbon với sự tham gia chủ động của doanh nghiệp có một vai trò hết sức quan trọng. Do đó, doanh nghiệp phải nắm bắt được nguyên lý vận hành của thị trường carbon, các quy định của pháp luật liên quan đến thị trường này, từ đó chủ động trong việc cân đối với năng lực, khả năng sẵn sàng tham gia của doanh nghiệp khi thị trường carbon đi vào vận hành.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thế Chinh, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định việc tổ chức và thực hiện thị trường carbon. Để tham gia vào việc vận hành thị trường này đòi hỏi phải có sự hiểu biết kỹ của doanh nghiệp và chủ động tham gia nhằm mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp, tránh được những rủi ro có thể gặp phải. 

Theo Điều 139, Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực từ ngày 1/1/2022, thị trường carbon trong nước gồm các hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon thu được từ cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế, phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. 

Các cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính thuộc danh mục quy định, được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính và có quyền trao đổi, mua bán trên thị trường carbon trong nước.

Cơ sở phát thải khí nhà kính chỉ được phát thải khí nhà kính trong hạn ngạch đã được phân bổ; trường hợp có nhu cầu phát thải vượt hạn ngạch được phân bổ thì mua hạn ngạch của đối tượng khác thông qua thị trường carbon trong nước.

Đồng thời, cơ sở phát thải khí nhà kính thực hiện giảm phát thải khí nhà kính hoặc không sử dụng hết hạn ngạch phát thải được phân bổ, được bán lại cho đối tượng khác có nhu cầu thông qua thị trường carbon trong nước...

Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thế Chinh, trên cơ sở quy định tại Điều 139 Luật Bảo vệ môi trường, doanh nghiệp cần nắm bắt được quy định pháp luật về thị trường carbon mà doanh nghiệp được tham gia trong nước và quốc tế. Các cơ quan liên quan thực hiện xây dựng và phát triển thị trường carbon.

Trong đó đáng chú ý Bộ Tài chính có vai trò chủ trì thành lập thị trường carbon. Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức phân bổ hạn ngạch khí nhà kính, tổ chức vận hành thị trường carbon trong nước và tham gia thị trường carbon thế giới. Luật Bảo vệ môi trường cũng đã quy định chi tiết các loại khí nhà kính, nội dung giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. 

Theo Nghị định số 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ ngày 7/1/2022 về “Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô – dôn”, lộ trình quy định thời điểm triển khai thị trường carbon sẽ bắt đầu thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon từ năm 2025, đến năm 2028 chính thức vận hành thị trường này. “Những quy định pháp luật về tổ chức và phát triển thị trường carbon đã có, để doanh nghiệp hiểu và nắm bắt được những quy định này cần phải có thời gian và nâng cao dần cùng với những quy định pháp luật liên quan khác.

Sự vào cuộc của các cấp chính quyền trong việc hỗ trợ doanh nghiệp chuẩn bị tham gia thị trường carbon có vai trò hết sức quan trọng, là động lực để thúc đẩy doanh nghiệp tham gia thị trường này từ cơ chế chính sách đến tổ chức thực hiện, hỗ trợ về hạ tầng và công tác hành chính”, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thế Chinh nhấn mạnh. 

Để hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp tham gia vào phát triển xanh, có cơ hội tiếp cận với nguồn tài chính xanh, đầu tư vào các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững, ngành Ngân hàng đã có nhiều giải pháp như: Quyết định 1604/QĐ-NHNN ngày 7/8/2018 về Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam, trong đó hướng tới tăng cường nhận thức và trách nhiệm của hệ thống ngân hàng về bảo vệ môi trường, phát triển bền vững; hướng dòng vốn tín dụng vào dự án thân thiện với môi trường, thúc đẩy các ngành sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng xanh, năng lượng sạch và năng lượng tái tạo.

Các chính sách trên đã giúp thị trường tín dụng xanh chuyển biến tích cực, giai đoạn 2017-2021, dư nợ cấp tín dụng xanh có tăng trưởng bình quân đạt hơn 25%/năm. Đến 30/6/2022, dư nợ cấp tín dụng đối với các dự án xanh đạt hơn 474.000 tỷ đồng (chiếm 4,1% tổng dư nợ toàn nền kinh tế), tăng 7,08% so với năm 2021, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (47%), nông nghiệp xanh (32%).

Các tổ chức tín dụng có sự chuyển biến rõ rệt trong định hướng hoạt động tín dụng xanh, chủ động tìm kiếm cơ hội hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế để phát triển và triển khai cho vay chương trình tín dụng xanh.

Bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, thời gian tới, ngành ngân hàng tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về hoạt động tín dụng xanh; ban hành Thông tư hướng dẫn các tổ chức tín dụng quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng để đáp ứng các yêu cầu của Luật Bảo vệ môi trường 2020; xây dựng Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2030, thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP 26; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ chuyển đổi số trong ngành ngân hàng, góp phần phát triển bền vững; đẩy mạnh đàm phán, tạo thuận lợi cho các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức tín dụng trong nước tham gia hoạt động hợp tác quốc tế tài trợ vốn cho các dự án xanh.

Với những định hướng ưu tiên phát triển xanh của Chính phủ, các doanh nghiệp cần chủ động, vận động, thay đổi mô hình sản xuất, kinh doanh để nắm bắt được cơ hội tiếp cận với nguồn vốn tín dụng xanh.

Để hoàn thiện hơn các chính sách trong lĩnh vực này, bà Phạm Thị Thanh Tùng cho rằng Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành có hướng dẫn về Danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án xanh phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh; xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành, lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh; nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn cho các chủ đầu tư có thêm nguồn lực triển khai các dự án xanh./.

Hoàng Nam

Xem thêm