Xã hội

Nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của người dân

Trên thực tế, một bộ phận người dân, nhất là các nhóm đặc thù, yếu thế còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin trong đó có thông tin pháp luật cũng như việc sử dụng pháp luật để thực hiện quyền, tự bảo vệ quyền của mình.

Đoàn viên, thanh niên và cán bộ, chiến sĩ biên phòng tỉnh Đắk Lắk tham quan, nghiên cứu tủ sách pháp luật. (Ảnh: Hoài Thu/TTXVN)

TTXVN - Đề án “Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 11/8/2022 nhằm triển khai kịp thời, hiệu quả, toàn diện các giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ người dân tiếp cận pháp luật, góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tuân theo pháp luật, sử dụng pháp luật của người dân.

Tiến sỹ Vũ Anh Tuấn (Học viện Chính trị Khu vực III) cho rằng, quyền tiếp cận pháp luật của công dân đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật hiện hành nhưng cần cụ thể, trực tiếp hơn.

Trên thực tế, ngoài các quy định có liên quan của Hiến pháp năm 2013 và của Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, quyền tiếp cận pháp luật của công dân còn được quy định trong một số ít nghị định, thông tư nhằm cụ thể hóa Luật Tiếp cận thông tin. Chẳng hạn, Nghị định số 13/2018-NĐ-CP ngày 23/1/2018 của Chính phủ “Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật tiếp cận thông tin”; Thông tư 46/2018/TT-BTC của Bộ Tài chính “Quy định chi tiết chi phí thực tế để in, sao, chụp và gửi thông tin quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật Tiếp cận thông tin”...

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều cách hiểu không giống nhau về các quy định nói trên và dẫn đến việc thực hiện cũng khác nhau về cùng một điều luật. Ngay cả với Điều 11 của Luật Tiếp cận thông tin quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong tiếp cận thông tin cũng cần được quy định cụ thể hơn để thuận lợi cho việc áp dụng trong thực tế. Ngoài ra, các quy định của Luật nói trên về quy trình, trách nhiệm pháp lý của cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin, các chế tài xử lý vi phạm cũng cần được quy định chi tiết và hợp lý hơn. Nếu không như vậy, có thể nảy sinh những hiện tượng chủ quan, tùy tiện trong suy luận và áp dụng điều luật trái nguyên tắc pháp chế, vi phạm quyền bình đẳng của công dân trong tiếp cận pháp luật.

Theo Tiến sỹ Vũ Anh Tuấn, khung pháp luật về quyền tiếp cận pháp luật của công dân chỉ mới được quy định gián tiếp, chưa thật cụ thể nên không thật thuận lợi cho việc phổ biến, giáo dục và thực hiện pháp luật về quyền tiếp cận pháp luật của công dân hiện nay. Hạn chế, bất cập này cần được nhận thức thấu đáo và có định hướng khắc phục kịp thời bằng các giải pháp hợp lý trong hoạt động lập pháp, lập quy của nhà nước.

Về quyền tiếp cận thông tin trong hoạt động lập pháp, Thạc sỹ Lê Thị Hồng Hạnh, Trường Đại học Luật Hà Nội, đánh giá: Nhìn chung, quy định của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin trong hoạt động lập pháp của nước ta có những ưu điểm: Chủ thể chịu trách nhiệm công khai thông tin đã được xác định rõ trong từng giai đoạn, dưới các hình thức cụ thể như đăng tải trên trang thông tin điện tử của các cơ quan, trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc niêm yết tại trụ sở cơ quan nhà nước; chủ thể tiếp cận thông tin trong hoạt động lập pháp không xác định, không giới hạn; phương thức cung cấp thông tin cũng được quy định rõ về sự công khai, minh bạch.

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, quy định của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin trong hoạt động lập pháp còn một số bất cập.

Phương thức công khai thông tin chủ yếu là do các cơ quan nhà nước sử dụng là phương thức chủ động, ít khi do các cá nhân chủ động yêu cầu. Không nhiều người hiểu là khi họ chủ động yêu cầu cơ quan soạn thảo dự án luật cung cấp những thông tin liên quan thì có được chấp nhận hay không và nếu được thì sẽ thực hiện theo quy trình nào. Bởi vậy, cần sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 theo hướng bổ sung quy định về quyền của công dân trong việc yêu cầu cơ quan cơ quan soạn thảo dự án luật, cơ quan có thẩm quyền liên quan cung cấp những thông tin liên quan.

Tiếp đó, việc cung cấp thông tin về việc thẩm định, thẩm tra đối với đề nghị xây dựng luật và dự thảo luật chưa được đề cập cụ thể trong các quy định hiện hành. Do đó, cần sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 theo hướng bổ sung quy định về công khai nội dung của báo cáo thẩm định, báo cáo thẩm tra đối với đề nghị xây dựng luật và dự thảo luật.

Theo quy định hiện hành, ở giai đoạn soạn thảo dự án luật, đơn vị chủ trì, cơ quan có thẩm quyền sẽ đăng tải toàn văn dự thảo lên trang thông tin chính thức để công dân có thể tiếp cận được thông tin. Tuy nhiên, một dự thảo toàn văn dài có tính khoa học pháp lý cao không phải là đối tượng mà mọi người dân nào cũng có thể tiếp cận và hiểu được nội dung của thông tin này. Do đó, cần sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 theo hướng bổ sung quy định về công bố bản tóm tắt nội dung chính sách chính của dự án luật bên cạnh việc đăng tải toàn văn dự thảo luật.

Trên thực tế, một bộ phận người dân, nhất là các nhóm đặc thù, yếu thế còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin trong đó có thông tin pháp luật cũng như việc sử dụng pháp luật để thực hiện quyền, tự bảo vệ quyền của mình. Nhận thức của người dân về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của pháp luật đối với đời sống và việc hiểu biết, sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích còn hạn chế.

Đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn nhận thức chưa đầy đủ về quyền tiếp cận thông tin, vẫn còn tâm lý e ngại khi cần yêu cầu cung cấp thông tin. Tỷ lệ người dân nhận thức về một số quyền cơ bản và một số nội dung pháp luật còn thấp, chỉ hiểu được một phần nội dung.

Do vậy, việc thực thi Đề án“Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân” là giải pháp quan trọng để góp phần bổ sung, bổ trợ cho các chương trình, đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật đang được các bộ, ngành thực hiện, góp phần hướng đến mục tiêu cao nhất trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của người dân./.

Trần Quang Vinh

Xem thêm