Văn hóa

Cần chính sách tài chính dài hạn và ổn định cho bảo tồn văn hóa dân tộc thiểu số

Nhờ các chương trình kiểm kê di sản phi vật thể, xây dựng hồ sơ quốc gia và quốc tế, hỗ trợ nghệ nhân, tổ chức trình diễn và truyền dạy, nhiều giá trị đã được “hồi sinh” một cách sống động.

Dâng lễ trong lễ hội của đồng bào Mường
Ảnh: Trọng Đạt

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch những năm qua luôn có các chương trình, chính sách hỗ trợ đồng bào các dân tộc thiểu số rà soát, phục dựng, bảo tồn các di sản, đưa nhiều di sản thoát khỏi nguy cơ mai một. Đặc biệt, việc triển khai Dự án 6 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 đã tạo chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần và sinh kế của đồng bào.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội đánh giá rất cao những nỗ lực bền bỉ và có hệ thống của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc rà soát, phục dựng và bảo tồn các di sản văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số trong những năm qua. Đây là một chính sách đúng hướng, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Nhà nước đối với việc gìn giữ cội nguồn văn hóa, đồng thời góp phần bảo đảm quyền tiếp cận di sản và thực hành văn hóa của các cộng đồng – một quyền con người quan trọng được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận.

Lễ hội Gầu Tào của người Mông
Ảnh: Trọng Đạt

PGS.TS Bùi Hoài Sơn nêu rõ: Nhiều di sản của đồng bào đã từng đứng trước nguy cơ mai một do biến đổi xã hội, di dân, tác động của kinh tế thị trường và sự thay đổi trong lối sống. Nhưng nhờ các chương trình kiểm kê di sản phi vật thể, xây dựng hồ sơ quốc gia và quốc tế, hỗ trợ nghệ nhân, tổ chức trình diễn và truyền dạy, nhiều giá trị đã được “hồi sinh” một cách sống động. Ông đặc biệt ấn tượng với cách làm mới gần đây không chỉ “bảo tồn hiện vật” mà còn “bảo tồn tri thức”, “bảo tồn con người”, tức là khôi phục cả không gian sống, môi trường văn hóa của di sản, chứ không đơn thuần là lưu giữ hình thức.

Tuy nhiên, để những chính sách này đi vào thực tiễn một cách hiệu quả và bền vững hơn cần bổ sung và điều chỉnh một số vấn đề.

Theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Thứ nhất, cần nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác văn hóa ở cơ sở, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Việc phục dựng hay bảo tồn di sản không thể chỉ làm từ trung ương, mà phải được triển khai tại chỗ, với sự tham gia chủ động của chính cộng đồng sở hữu. Muốn vậy, cán bộ văn hóa địa phương phải được đào tạo bài bản, hiểu biết chuyên sâu về di sản và có kỹ năng tổ chức các hoạt động văn hóa mang tính cộng đồng.

Thứ hai là phải chuyển từ tư duy bảo tồn tĩnh sang bảo tồn gắn với phát triển. Di sản sống là di sản được trao truyền, thực hành trong đời sống hiện tại. Chúng ta cần khuyến khích các mô hình gắn di sản với sinh kế, du lịch cộng đồng, giáo dục di sản trong trường học… để di sản vừa được giữ gìn, vừa được làm mới một cách sáng tạo và phù hợp với thời đại. Điều này đòi hỏi các chính sách liên ngành, không thể chỉ là việc riêng của ngành văn hóa.

Nghệ nhân truyền dạy thêu trang phục truyền thống của đồng bào Dân tộc Môn cho học sinh ở Lai Châu. 
Ảnh: Quý Trung – TTXVN

Tiếp đó, trong bối cảnh chuyển đổi số, cần xây dựng cơ sở dữ liệu số về di sản văn hóa dân tộc thiểu số, từ hình ảnh, âm thanh đến ký ức, câu chuyện, ngữ liệu... để lưu trữ, chia sẻ và tiếp cận dễ dàng hơn, nhất là với thế hệ trẻ và cộng đồng khoa học. Việc số hóa sẽ giúp chúng ta đưa di sản “ra khỏi làng bản”, giới thiệu với cộng đồng quốc tế, quảng bá sâu hơn hình ảnh Việt Nam đa dạng về văn hóa.

Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Chương trình số hóa di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021-2030 đặt mục tiêu chuẩn hóa và tập trung dữ liệu về di tích, hiện vật, tư liệu, di sản phi vật thể. Nhiều bảo tàng và viện nghiên cứu đã hình thành cơ sở dữ liệu số, số hóa hình ảnh, băng ghi âm, video, báo cáo khoa học và hiện vật quý giá. Việc này không chỉ phục vụ quản lý, nghiên cứu, giáo dục mà còn mở ra cơ hội phát triển du lịch ảo, trải nghiệm trực tuyến, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra quốc tế. Mục tiêu đến năm 2030 là số hóa 90% các di sản văn hóa, di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt

Là đại biểu Quốc hội, PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho rằng đã đến lúc cần có một chính sách tài chính dài hạn và ổn định cho công tác bảo tồn văn hóa dân tộc thiểu số, tránh tình trạng “ngắt quãng theo dự án”. Các nghệ nhân cần được nhìn nhận như “người giữ hồn dân tộc”, được đãi ngộ xứng đáng và có cơ chế hỗ trợ để có thể truyền dạy di sản trong cộng đồng. Văn hóa không thể nuôi sống chính nó nếu không có sự đầu tư chiến lược, bài bản và gắn với tầm nhìn phát triển dài hạn./.

Thanh Giang

Xem thêm