Thực tế quản lý thời gian qua đã ghi nhận có nhiều cơ sở làm đẹp vi phạm, trong đó điển hình là cung cấp dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh mà không có giấy phép hoạt động, điều này đặt ra thách thức không nhỏ trong công tác quản lý.
“Việc đào tạo nhân lực ngành làm đẹp tại nước ta đang còn tự phát, người đi trước truyền lại cho người đi sau mà chưa có các chương trình đào tạo bài bản như nhiều nước tiên tiến trên thế giới. Điều này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe người dân”. Nhận định được đưa ra tại Hội nghị đối thoại về “Hành lang pháp lý đối với ngành làm đẹp” do Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư pháp) tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh chiều 12/4.
Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Trọng Khoa, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh – Bộ Y tế cho biết, hiện trên cả nước có hơn 100 bệnh viện đa khoa tư nhân, khoảng 70% trong số đó có khoa thẩm mỹ hoặc cung cấp dịch vụ liên quan đến thẩm mỹ, da liễu. Bên cạnh đó, có 28 bệnh viện chuyên khoa thẩm mỹ và 412 phòng khám chuyên khoa thẩm mỹ được cấp phép. Các bệnh viện chuyên khoa thẩm mỹ được phân bổ tại các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh (chiếm hơn 90% số lượng bệnh viện chuyên khoa thẩm mỹ). Ở các tỉnh, thành phố khác đa phần là loại hình phòng khám chuyên khoa thẩm mỹ và cơ sở dịch vụ thẩm mỹ.
Thực tế quản lý thời gian qua đã ghi nhận có nhiều cơ sở làm đẹp vi phạm, trong đó điển hình là cung cấp dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh mà không có giấy phép hoạt động (bao gồm cả các cơ sở kinh doanh có thực hiện dịch vụ thẩm mỹ theo quy định phải thực hiện tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được cấp phép hoạt động). Cung cấp dịch vụ vượt quá phạm vi chuyên môn được phép; Không đảm bảo các điều kiện hoạt động. Các đơn vị này cũng thường xuyên sử dụng người không có giấy phép hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, người không đủ điều kiện hành nghề. Bên cạnh đó, các cơ sở quảng cáo dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh không đúng phạm vi chuyên môn, quảng cáo các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận nội dung trước khi thực hiện quảng cáo theo quy định; Sử dụng phẩm màu chưa rõ nguồn gốc, sử dụng thuốc, các hóa chất, thiết bị để can thiệp vào cơ thể khi chưa được cấp phép… Không thực hiện niêm yết công khai giá dịch vụ, thu giá dịch vụ cao hơn giá đã niêm yết, tư vấn không đúng sự thật nhằm “vẽ bệnh”…
Bên cạnh các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã được cấp giấy phép hoạt động có phạm vi hoạt động liên quan đến lĩnh vực thẩm mỹ còn tồn tại rất nhiều cơ sở thẩm mỹ “chui”, hoạt động không đúng các quy định hiện hành, núp bóng dưới các hình thức cơ sở làm đẹp, chăm sóc da, tóc, thẩm mỹ viện, spa... Các cơ sở dịch vụ thẩm mỹ chưa nghiêm túc thực hiện các quy định, gây khó khăn cho công tác quản lý, thậm chí có nhiều trường hợp khi đoàn thanh tra, kiểm tra của ngành y tế đến làm việc thì đóng cửa không tiếp.
Một trong những vấn đề bất cập được nêu ra tại Hội nghị đó là công tác đào tạo học viên ngành làm đẹp không đúng theo phạm vi hoạt động được phép. Ông Nguyễn Trọng Khoa nêu lên trường hợp có những người đang buôn bán ngoài chợ bỗng nhiên đi học về làm đẹp trong vài ba tháng sau đó cũng mở cơ sở kinh doanh làm đẹp. Theo ông Khoa, thực tế thời gian qua đã có nhiều trường hợp tai biến sau thẩm mỹ, làm đẹp gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân, thậm chí là tử vong. Điều này đặt ra thách thức không nhỏ trong công tác quản lý. Trong khi đó, hiện vẫn còn thiếu nhân lực cho công tác quản lý, dẫn đến việc thanh tra, kiểm tra chưa được thường xuyên và sâu sát. Công tác tuyên truyền, truyền thông liên quan đến lĩnh vực thẩm mỹ còn chưa đủ mạnh mẽ, dẫn đến việc nhiều người dân chưa hiểu đúng các quy định của pháp luật.
Về vấn đề này, ông Nguyễn Ngọc Thành Chung, giảng viên Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, dù ngành làm đẹp của Việt Nam đang phát triển rất mạnh nhưng hiện vẫn chưa có chương trình đào tạo bài bản về ngành chăm sóc sắc đẹp trong hệ thống giáo dục. Nhìn sang Hàn Quốc – cường quốc về chăm sóc sắc đẹp không chỉ trong khu vực châu Á mà còn cả trên thế giới, đã phát triển hệ thống đào tạo ngành chăm sóc sắc đẹp bài bản đến chuyên sâu, thậm chí chỉ liên quan đến làm nail (làm móng) cũng đã đào tạo đến trình độ tiến sĩ. Trong khi đó, việc đào tạo trong lĩnh vực chăm sóc sắc đẹp ở Việt Nam chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm, người đi trước dạy người đi sau trong khi bản thân người đi trước cũng chỉ mới được đào tạo sơ cấp. Bên cạnh việc đưa vào các chương trình đào tạo bài bản, chuyên sâu ngành làm đẹp, theo ông Chung, cần hợp nhất việc chăm sóc sắc đẹp với chăm sóc sức khỏe bởi đa số hiện nay các hoạt động chăm sóc sắc đẹp đều liên quan đến sức khỏe và nên do ngành y tế quản lý, cấp phép.
Liên quan đến hành lang pháp lý trong ngành làm đẹp, bà Bùi Thu Trang, Tổng Giám đốc Tập đoàn Sol Thái Lan tại Việt Nam chia sẻ, trong 2 năm gia nhập thị trường Việt Nam, Tập đoàn Sol gần như dành toàn bộ thời gian cho việc xin giấy phép, xử lý hồ sơ, hoàn thiện thủ tục pháp lý để sản phẩm có thể được phân phối một cách hợp pháp. Bà Trang cho rằng, hiện vẫn đang thiếu các đầu mối rõ ràng để các doanh nghiệp liên hệ khi gặp khó khăn, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. “Với các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ thì việc tiếp cận các cơ quan chức năng đôi khi là “điều không tưởng”, dẫn đến chúng tôi không biết nên hỏi ai, gửi hồ sơ cho ai và mất bao lâu để nhận được phản hồi. Chúng tôi kiến nghị, cần giảm bớt những thủ tục vòng vo, phức tạp, đồng thời có các chính sách hỗ trợ về thuế, ưu đãi để khuyến khích doanh nghiệp nhỏ phát triển bền vững”, bà Trang đề xuất.
Hội nghị về “Hành lang pháp lý đối với ngành làm đẹp” cũng tập trung phân tích, làm rõ khuôn khổ pháp lý hiện hành điều chỉnh các hoạt động chăm sóc sắc đẹp như spa, chăm sóc da, phẫu thuật thẩm mỹ, dịch vụ làm tóc, nail, nối mi..., đặc biệt là các điều kiện kinh doanh ngành nghề liên quan đến sức khỏe con người. Hội nghị cũng nhận diện những bất cập, chồng chéo trong phân định thẩm quyền quản lý nhà nước giữa các bộ, ngành và địa phương, nhất là đối với các cơ sở không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Khám bệnh, chữa bệnh, qua đó xác định những khoảng trống pháp lý cần được khẩn trương hoàn thiện để bảo đảm an toàn cho người sử dụng dịch vụ và tạo điều kiện phát triển bền vững cho doanh nghiệp.
Một nội dung trọng tâm khác được đặt ra tại Hội nghị là định hướng “chuyển đổi xanh” trong ngành làm đẹp – xu hướng tất yếu trong bối cảnh kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững và tiêu dùng có trách nhiệm. Hội nghị nhấn mạnh vai trò của việc thúc đẩy áp dụng công nghệ thân thiện môi trường, sản phẩm có nguồn gốc rõ ràng, quy trình dịch vụ đạt chuẩn nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, đồng thời khẳng định uy tín, thương hiệu của các doanh nghiệp trên thị trường./.