Nhiều sai phạm tại Dự án “Hạ tầng, kho bãi Trung tâm Logistics Quốc tế thành phố Bắc Giang”
Theo Kết luận của Thanh tra tỉnh Bắc Giang, Dự án “Hạ tầng, kho bãi Trung tâm Logistics Quốc tế thành phố Bắc Giang” là Dự án trọng điểm của tỉnh Bắc Giang.
TTXVN - Thanh tra tỉnh Bắc Giang vừa có kết luận thanh tra toàn diện Dự án “Hạ tầng, kho bãi Trung tâm Logistics Quốc tế thành phố Bắc Giang” và chỉ ra nhiều sai phạm trong quá trình triển khai dự án này.
Dự án “Hạ tầng, kho bãi Trung tâm Logistics Quốc tế thành phố Bắc Giang” tại xã Song Khê, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang được UBND tỉnh Bắc Giang phê duyệt chủ trương đầu tư tại Quyết định số 562/QĐ-UBND ngày 23/9/2016; nhà đầu tư là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Logistics Quốc tế Bắc Giang.
Dự án được Sở Kế hoạch và Đầu tư Bắc Giang cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư số 7677750638 lần đầu ngày 30/9/2016 và chứng nhận điều chỉnh lần thứ hai ngày 24/5/2022 để thực hiện trên diện tích 66,69 ha; tổng vốn đầu tư trên 4.194 tỷ đồng. Thời hạn hoạt động là 50 năm kể từ ngày được chấp thuận chủ trương đầu tư.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Logistics Quốc tế Bắc Giang là Công ty Trách nhiệm hữu hạn có 2 thành viên: Công ty Cổ phần quản lý tài sản Khải Trình Hải Nam (Trung Quốc) và Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đầu tư và quản lý Hoàng Phúc (Việt Nam). Địa chỉ trụ sở chính: Số 168 đường Nguyễn Thị Lưu II, phường Ngô Quyền, Thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Người đại diện theo pháp luật: Ông Zang Zheng Ming (Trương Chính Minh), quốc tịch Trung Quốc.
Theo Kết luận của Thanh tra tỉnh Bắc Giang, Dự án “Hạ tầng, kho bãi Trung tâm Logistics Quốc tế thành phố Bắc Giang” là Dự án trọng điểm của tỉnh Bắc Giang. Sau khi được chấp thuận đầu tư, Công ty và các cơ quan liên quan nhanh chóng triển khai công tác thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, giao đất, cho thuê đất để thực hiện Dự án.
Đến thời điểm thanh tra, Dự án triển khai thực hiện 15,17% tổng vốn đầu tư đăng ký toàn bộ Dự án và 25,45% tổng vốn đăng ký giai đoạn 1; hoàn thành công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng; cơ bản hoàn thành công tác giao đất, cho thuê đất, san lấp mặt bằng và triển khai xây dựng một phần các hạng mục công trình giai đoạn 1 của Dự án.
Tuy nhiên, sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, Công ty không hoàn thành góp vốn điều lệ trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, vi phạm khoản 2 Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Quá trình thực hiện thủ tục thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp lần thứ nhất, Công ty kê khai không trung thực, không chính xác về việc góp vốn điều lệ (Công ty kê khai 2 thành viên góp vốn đã góp đủ số vốn góp điều lệ như đăng ký trong khi có 1 thành viên chưa góp đủ số vốn), vi phạm khoản 4 Điều 16 Luật Doanh nghiệp năm 2020 (khoản 4 Điều 17 Luật Doanh nghiệp năm 2014).
Sau khi được phê duyệt chủ trương đầu tư, Công ty triển khai chậm tiến độ góp vốn, chậm tiến độ huy động vốn, chậm tiến độ thực hiện Dự án nhưng không thực hiện thủ tục điều chỉnh.
Dự án đã ngừng hoạt động từ ngày 1/3/2022 (quá 6 tháng) nhưng Nhà đầu tư không thông báo cho Cơ quan có thẩm quyền; đồng thời, quá trình thực hiện Dự án, Công ty không chấp hành chế độ báo cáo tình hình thực hiện Dự án, báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư, vi phạm khoản 2 Điều 72 Luật Đầu tư năm 2020 và khoản 8 Điều 100 Nghị định số 29/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ.
Về thực hiện pháp luật về đất đai, môi trường, quá trình xây dựng, vận hành Trạm trộn bê tông của Công ty có dấu hiệu hoạt động không đúng mục đích lắp đặt (để phục vụ cho Dự án Hạ tầng, kho bãi Trung tâm Logistics Quốc tế thành phố Bắc Giang).
Đối với việc thực hiện pháp luật về xây dựng, quá trình thi công các công trình xây dựng, Công ty quyết định thành lập Ban quản lý Dự án không đủ điều kiện để quản lý xây dựng, vi phạm quy định tại điểm c, khoản 3, Điều 64 Nghị định số 59/2015/NĐ-CP của Chính phủ…
Thanh tra tỉnh Bắc Giang yêu cầu các cơ quan, đơn vị liên quan xử lý, khắc phục các sai phạm trên; trong đó, yêu cầu Sở Kế hoạch và Đầu tư xử lý theo thẩm quyền đối với Công ty về các hành vi: Chưa hoàn thành góp vốn điều lệ doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; kê khai, đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp không trung thực, không chính xác; chậm tiến độ góp vốn, huy động vốn, thực hiện Dự án nhưng không thực hiện thủ tục điều chỉnh, đã xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn tiếp tục vi phạm; không chấp hành chế độ báo cáo tình hình thực hiện Dự án theo quy định tại khoản 2 Điều 71 Luật Đầu tư năm 2014 và khoản 2 Điều 72 Luật Đầu tư năm 2020; báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư theo quy định tại khoản 8 Điều 100 Nghị định số 29/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ. Dự án đã ngừng hoạt động từ ngày 1/3/2022 (quá 6 tháng) nhưng Nhà đầu tư không thông báo cho Cơ quan đăng ký đầu tư, vi phạm khoản 1 Điều 47 Luật Đầu tư năm 2020.../.