Giữa nhịp sống hiện đại, tiếng chiêng và vòng xoang vẫn vang vọng. Đó không chỉ là nghệ thuật trình diễn mà còn là ký ức cộng đồng, ngôn ngữ kết nối quá khứ với hiện tại để nhịp chiêng, điệu múa mãi ngân vang qua các thế hệ.
Trong dòng chảy hội nhập mạnh mẽ, khi những giá trị truyền thống phải đối diện với không ít thách thức, múa dân gian Tây Nguyên vẫn âm thầm lưu giữ trong mình sức sống đặc biệt. Những vòng xoang, động tác mô phỏng núi rừng, tiếng chiêng ngân sâu vào đêm… tất cả đã trở thành biểu tượng văn hóa của các dân tộc Ê Đê, Ba Na… Tuy nhiên, sự thay đổi nhanh của đời sống hiện đại khiến nhiều điệu múa cổ dần vắng bóng trong lễ hội, trong sân nhà rông, trong đời sống cộng đồng. Vì vậy, việc khôi phục và truyền lại múa dân gian đang là nỗ lực lớn của ngành văn hóa và chính cộng đồng buôn làng tại Đắk Lắk.
Hồi sinh điệu múa giữa buôn làng
Chiều muộn cuối tuần, tại buôn Tơng Jú (phường Ea Kao), không gian như bừng sáng bởi tiếng chiêng trầm hùng vang lên từ sân đất đỏ trước nhà cộng đồng. Trong làn khói bếp phảng phất, những cô gái Ê Đê với váy thổ cẩm, chân trần nhịp nhàng xoay nhẹ những vòng xoang đều đặn. Mỗi động tác tay vươn ra như cánh chim vỗ, mỗi bước chân nện xuống đất như nhịp ru của núi rừng. Cạnh đó, các chàng trai trẻ vừa diễn tấu cồng chiêng, vừa giữ nhịp, tái hiện sinh động không gian văn hóa buôn làng.
Tương tự tại lớp tập huấn ở buôn Ky (phường Thành Nhất), bài múa “Chim Grứ” được đưa vào giảng dạy như một biểu tượng tiêu biểu. Trong tiếng Ê Đê, Grứ nghĩa là đại bàng – biểu tượng cho sức mạnh thống lĩnh bầu trời. Điệu múa này thường được thể hiện trong các lễ hội lớn, lễ cúng thần hoặc lễ bỏ mả.
Những chàng trai đảm nhiệm phần chiêng, còn các cô gái trẻ mô phỏng hình ảnh đôi cánh chim lượn trên bầu trời. Động tác tay uốn cong, cổ tay hướng lên như mỏ chim, vai hạ thấp để tạo dáng thân chim – tất cả đòi hỏi sự bền bỉ và kỹ thuật, như lời chia sẻ của chị H’Wanna Ktul (ở buôn Ky, phường Thành Nhất): Động tác tay là khó nhất, nếu không tập đúng sẽ nhanh mỏi và mất dáng. Phần xoang cũng phải đều thì điệu múa mới thật sự đẹp.
Qua từng buổi học, nghệ nhân truyền dạy không chỉ kỹ thuật mà còn kể về câu chuyện, tín ngưỡng gắn với điệu múa. Các học viên vì thế hiểu rằng múa dân gian không tách rời đời sống – nó xuất phát từ hoạt động săn bắt, trồng trọt, cầu mùa, lễ bỏ mả, hay lễ mừng lúa mới.
Những buổi tập như thế đã trở thành thói quen văn hóa của các buôn du lịch cộng đồng – nơi múa không chỉ là biểu diễn mà còn là “ngôn ngữ của linh hồn”, như lời các nghệ nhân vẫn nói.
Chị H’Huyền Mlô ở buôn M’Oa chia sẻ: Làn điệu dân ca và múa dân gian là hai giá trị quý nhất của dân tộc Ê Đê. Nếu không dạy lại cho lớp trẻ hôm nay thì một ngày nào đó, những vòng xoang có thể chỉ còn nằm trên sách vở. Sự trăn trở này không phải của riêng chị, mà là của rất nhiều nghệ nhân, cán bộ văn hóa và người dân đang chứng kiến sự thay đổi của buôn làng.
Những năm qua, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đắk Lắk đã phối hợp với các buôn làng mở hàng chục lớp tập huấn múa dân gian. Điểm đặc biệt của các lớp học này là không tổ chức trong hội trường mà tổ chức ngay tại buôn – nơi văn hóa được sinh ra, trưởng thành và được gìn giữ từ bao đời nay.
Nhà văn Niê Thanh Mai, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đắk Lắk, cho biết: “Khi đi sâu vào các buôn, chúng tôi nhận ra rằng lớp trẻ cần có người dẫn dắt để hiểu đúng và múa đúng. Đó là cách để các em không chỉ tập lại động tác mà còn cảm được cái ‘hồn’ của múa dân gian Tây Nguyên”.
Đưa múa dân gian vào chiến lược phát triển
Trong nhiều buôn làng, múa dân gian đã trở thành “đặc sản” của du lịch cộng đồng. Ở mỗi dân tộc, cách thể hiện điệu múa truyền thống lại có phần khác nhau: Điệu xoang Ba Na khoan thai, xoang Ê Đê dẻo dai nhanh nhẹn, múa chiêng M’nông mạnh mẽ. Tại các buổi giao lưu với du khách, tiếng chiêng hòa cùng vòng xoang tạo nên không gian văn hóa độc đáo, khiến những ai từng trải nghiệm đều khó quên.
Tiến sĩ Lương Thanh Sơn – nguyên Giám đốc Bảo tàng Đắk Lắk – cho biết, mỗi động tác tay, mỗi nhịp chân trong các điệu múa đều ẩn chứa ý nghĩa chào thần linh, mừng mùa bội thu hay thể hiện niềm vui trong ngày đoàn kết. Các điệu múa thường mô phỏng hoạt động lao động sản xuất, sinh hoạt hằng ngày của đồng bào, cũng có khi thể hiện tình cảm, tình yêu với quê hương, đồi núi, cây cỏ, sông suối - phản ánh mối giao hòa đậm nét giữa con người với thiên nhiên và đời sống tín ngưỡng.
Nghệ sĩ Ưu tú Vũ Lân, Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tại Đắk Lắk thì cho rằng: Múa dân gian được coi như một nghi thức của hoạt động văn hóa cộng đồng hoặc là nghi lễ mang tính linh thiêng. Từng động tác đều hết sức tinh tế, mang giá trị tâm linh. Đưa múa vào du lịch cộng đồng là cách trả múa về đúng không gian văn hóa của nó – nơi có chiêng, có rượu cần và có cộng đồng.
Thực tế cho thấy, nhiều điệu múa cổ từng xuất hiện trong các dịp mừng lúa mới, lễ cúng bến nước, lễ mừng nhà mới… nay không còn được thực hành thường xuyên. Thế hệ trẻ ít có cơ hội sống trong không gian lễ hội dẫn đến sự mai một trong thực hành văn hóa.
Từ những lớp tập huấn đầu tiên đến khi các đội văn nghệ lập thành nhóm biểu diễn đều đặn, đó là hành trình bền bỉ đầy nỗ lực để hồi sinh di sản.
Giữa nhịp sống hiện đại, khi điện thoại thông minh, mạng xã hội và các trào lưu mới liên tục xuất hiện, việc gìn giữ một loại hình nghệ thuật truyền thống như múa dân gian đòi hỏi tâm huyết và sự đồng lòng của cả cộng đồng. Và thật may, ở Đắk Lắk, những nỗ lực ấy đang được từng bước hiện thực hóa.
Những vòng xoang trước sân nhà cộng đồng, tiếng chiêng vang trong đêm hội, những bàn tay uốn lượn mô phỏng đại bàng Grứ… tất cả đang tạo nên một mạch chảy văn hóa bền bỉ. Đó là lời nhắc nhở: văn hóa không tự mất đi nếu có người yêu và giữ.
Trên cơ sở Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, ngành Văn hóa Đắk Lắk phối hợp các địa phương khảo sát, lựa chọn những buôn làng tiêu biểu để đầu tư phát triển du lịch cộng đồng. Các hoạt động biểu diễn nghệ thuật dân gian, trong đó có múa truyền thống, được tổ chức thường xuyên tại điểm du lịch trọng điểm. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trẻ làm văn hóa và du lịch được tỉnh chú trọng. Các lễ hội đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, chuẩn hóa, tổ chức định kỳ nhằm tạo thương hiệu riêng cho du lịch Đắk Lắk./.




