Không phải ngẫu nhiên mà nhiều giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số đã được UNESCO ghi danh như không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Then Tày–Nùng–Thái, Nghệ thuật Xòe Thái…
Văn hóa đồng bào các dân tộc thiểu số không chỉ là tài sản tinh thần vô giá, mà còn là nguồn lực quan trọng trong hành trình phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam khi hội nhập quốc tế.
Trao đổi với phóng viên TTXVN về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội đã khẳng định: Không phải ngẫu nhiên mà nhiều giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số đã được UNESCO ghi danh như không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Then Tày–Nùng–Thái, Nghệ thuật Xòe Thái… Điều đó cho thấy những di sản này không chỉ có giá trị với cộng đồng sở hữu mà còn có ý nghĩa lớn với nhân loại.
*Phóng viên: Ông có đánh giá như thế nào về các giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số trong dòng chảy phát triển văn hóa Việt Nam?
* Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Sơn: Trong tổng thể văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng, văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số luôn giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Đây không chỉ là bộ phận cấu thành bản sắc văn hóa dân tộc mà còn là kho tàng tri thức, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm ứng xử với thiên nhiên và cộng đồng được gìn giữ qua hàng nghìn năm lịch sử. Nhìn vào đời sống văn hóa của các tộc người từ miền núi phía Bắc, Tây Nguyên đến Tây Nam Bộ, chúng ta thấy một thế giới phong phú của ngôn ngữ, trang phục, lễ hội, tín ngưỡng, nghệ thuật, diễn xướng, kiến trúc… Tất cả đan xen, hòa quyện, tạo nên bức tranh đa sắc màu, góp phần làm nên chiều sâu và sức sống của nền văn hóa Việt Nam.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi thế giới ngày càng phẳng và những giá trị truyền thống dễ bị lãng quên, thì những di sản này càng trở thành “điểm tựa căn cốt” để chúng ta khẳng định bản sắc và củng cố sức mạnh mềm quốc gia. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số đã được UNESCO ghi danh như không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Then Tày–Nùng–Thái, Nghệ thuật Xòe Thái… Điều đó cho thấy những di sản này không chỉ có giá trị với cộng đồng sở hữu mà còn có ý nghĩa lớn với nhân loại.
Điều đáng nói hơn, văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số mang trong mình triết lý sống hài hòa với thiên nhiên – điều mà cả thế giới hiện nay đang hướng tới trong phát triển bền vững. Tri thức bản địa về trồng trọt, về rừng, về nước, về môi trường; nghệ thuật cộng đồng đề cao sự sẻ chia, gắn bó; hay tinh thần đoàn kết trong các lễ hội… đều là những giá trị có thể góp phần giải quyết nhiều vấn đề của thời hiện đại.
Vì vậy, tôi luôn coi văn hóa các dân tộc thiểu số là tài sản chiến lược của quốc gia – là nguồn lực mềm quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, là linh hồn của nhiều không gian văn hóa – du lịch đặc sắc và là phần không thể tách rời trong hành trình xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong kỷ nguyên hội nhập.
Phóng viên: Đảng, Nhà nước, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch luôn quan tâm, ban hành các chính sách về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số những năm gần đây. Ông có thể chia sẻ một số chính sách nổi bật?
*Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Sơn: Trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với văn hóa các dân tộc thiểu số, thể hiện qua việc ban hành nhiều chủ trương lớn, xác lập văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực nội sinh quan trọng của phát triển. Ngay từ Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, vấn đề giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã được đặt ở vị trí trung tâm. Đặc biệt hơn, những nghị quyết chuyên đề của Trung ương gần đây – như Nghị quyết 33/NQ-TW và sắp tới là Nghị quyết mới về chấn hưng và phát triển văn hóa – đều nhấn mạnh nhiệm vụ phải bảo tồn, tôn vinh và làm giàu văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số trong bối cảnh phát triển mới.
Ở cấp Chính phủ, có thể thấy nhiều chính sách nổi bật được triển khai đồng bộ. Trước hết là Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2030, trong đó văn hóa chiếm một cấu phần rất quan trọng. Các dự án như bảo tồn tiếng nói – chữ viết, phục dựng lễ hội truyền thống, hỗ trợ nghệ nhân, bảo tồn nghề thủ công, hay phát triển không gian văn hóa cộng đồng đều được triển khai mạnh mẽ.
Riêng trong lĩnh vực văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã thực hiện Đề án tổng thể về bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số đến năm 2030, lấy trọng tâm là ba yếu tố: bảo tồn di sản, nâng cao năng lực văn hóa cho cộng đồng, và gắn bảo tồn với phát triển bền vững. Chúng ta đã tiến hành kiểm kê di sản, lập hồ sơ khoa học, đưa nhiều loại hình vào danh mục di sản quốc gia; hỗ trợ nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân nhân dân; mở rộng mạng lưới các đội văn nghệ cộng đồng… Đây là những chính sách giúp văn hóa của đồng bào không còn đơn độc trong cuộc cạnh tranh khốc liệt của đời sống hiện đại.
Một điểm rất quan trọng là trong giai đoạn 2024–2025, Bộ đã đẩy mạnh chuyển đổi số trong bảo tồn di sản, xây dựng cơ sở dữ liệu số về tiếng nói, chữ viết, nhạc cụ, tri thức dân gian, trang phục, nghệ thuật diễn xướng… Nhờ vậy, nhiều giá trị văn hóa vốn đứng trước nguy cơ mai một đã có cơ hội hồi sinh trong môi trường mới, tiếp cận dễ dàng hơn với thế hệ trẻ.
Tôi cho rằng tinh thần nhất quán của các chính sách này là: bảo tồn không phải để giữ nguyên, mà để tiếp tục phát triển; phát huy không chỉ để phục dựng quá khứ, mà để tạo ra sức sống mới, để văn hóa thực sự trở thành nguồn lực quan trọng trong chiến lược xây dựng con người Việt Nam hiện đại – giàu bản sắc.
*Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Sơn!
(Bài viết có sự phối hợp thực hiện của Vụ Pháp chế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
- Từ khóa:
- Văn hóa
- dân tộc thiểu số
- dự án 06




