Đại sứ Cuba Orlando Nicolás Hernández Guillén nhấn mạnh, khó có chuyến thăm nào, ít nhất là từ Cuba, lại có ý nghĩa to lớn như chuyến thăm Việt Nam của Fidel năm 1973, và người dân Cuba rất tự hào về tất cả những gì Tổng Tư lệnh của chúng tôi đã làm vào thời điểm đó.
TTXVN - Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Lãnh tụ Fidel Castro sang thăm Việt Nam và vùng mới được giải phóng Quảng Trị (tháng 9/1973-9/2023), Đại sứ Cuba tại Việt Nam Orlando Nicolás Hernández Guillén đã trả lời phỏng vấn phóng viên TTXVN về ý nghĩa chuyến thăm và quan hệ Việt Nam và Cuba - mối tình hữu nghị đặc biệt, thuỷ chung, trong sáng, hiếm có trong quan hệ quốc tế.
*Phóng viên: Năm nay, Việt Nam và Cuba kỷ niệm 50 chuyến thăm lịch sử của lãnh tụ Cuba Fidel Castro tới vùng mới giải phóng miền nam Việt Nam tại Quảng Trị. Fidel Castro là vị nguyên thủ quốc gia nước ngoài đầu tiên và duy nhất đến thăm vùng giải phóng Quảng Trị. Theo Đại sứ, chuyến thăm có ý nghĩa thế nào đối với quan hệ hai nước?
*Đại sứ Orlando Nicolás Hernández Guillén: Chuyến thăm này có nhiều ý nghĩa. Đầu tiên, tôi có thể nói rằng đó là ý nghĩa đối với chính Tổng Tư lệnh Fidel Castro. Từ thắng lợi của Cách mạng của Cuba và tầm ảnh hưởng quốc tế của nó, Fidel xác định cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là một trong những nhiệm vụ to lớn của nhân loại nhằm củng cố chủ quyền, độc lập và phẩm giá con người.
Trong thực tế, trong tất cả các sự kiện quốc tế mà Fidel Castro tham dự trong suốt những thập niên 60 của thế kỷ 20, Tổng Tư lệnh đều đề cập đến cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và sự cần thiết phải thể hiện tình đoàn kết với cuộc đấu tranh đó; đồng thời tại Cuba đã thành lập Ủy ban Cuba đoàn kết với miền Nam Việt Nam và các cơ chế khác để hỗ trợ một cách tối đa cho nhân dân Việt Nam.
Trong thập niên 60, những nhà lãnh đạo cao nhất của Cuba đã tới thăm Việt Nam, như đồng chí Raúl Castro, Tổng thống Osvaldo Dorticós, Tư lệnh Juan Almeida Bosque, ngoại trừ chính đồng chí Tổng Tư lệnh. Vì thế khi đến Việt Nam ngày 12/9/1973 và đến Quảng Trị vào ngày 15/9/1973, Fidel Castro đã hiện thực hóa một khát vọng lớn lao của chính mình là được tận mắt chứng kiếncuộc đấu tranh, tinh thần chiến đấu, chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Việt Nam.
Đó là lý do tại sao tôi nói rằng chuyến thăm này có một ý nghĩa đặc biệt đối với Fidel Castro, và rõ ràng những lời khuyên trước đó rằng: đồng chí không nên và hạn chế đến những khu vực nguy hiểm đã không thể ngăn cản được việc Fidel Castro đến vùng đất "lửa" Quảng Trị.
Và tôi nghĩ rằng sự kiện này đối với người dân Cuba có một ý nghĩa rất lớn lao và đối với nhân dân Việt Nam cũng vậy. Những người Cuba có mặt ở đây có thể xác thực rằng hình ảnh Fidel, nhân cách của Fidel, những sự kiện về Fidel tại Việt Nam và ở nhiều nơi khác, đều mang đậm chất huyền thoại. Rõ ràng tất cả những điều này là một phần di sản của mối quan hệ giữa Cuba và Việt Nam. Đó là lý do vì sao ngay sau khi Fidel từ trần, không chỉ ở Hà Nội mà còn ở nhiều nơi trên cả nước Việt Nam đã tổ chức tưởng niệm đồng chí một cách trang trọng và ấn tượng.
Đó cũng là lý do tại sao tôi tin rằng chuyến thăm này đánh dấu một cột mốc quan trọng. Tôi chắc chắn rằng, khó có chuyến thăm nào, ít nhất là từ Cuba, lại có ý nghĩa to lớn như chuyến thăm Việt Nam của Fidel năm 1973, và người dân Cuba chúng tôi rất tự hào về tất cả những gì Tổng Tư lệnh của chúng tôi đã làm vào thời điểm đó.
*Phóng viên: Việt Nam là đối tác thương mại thứ hai và nhà đầu tư hàng đầu của Cuba ở châu Á với nhiều dự án giúp Cuba đảm bảo an ninh lương thực. Theo Đại sứ, hai nước có thể tăng cường hợp tác trên lĩnh vực tiềm năng nào để thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác song phương?
*Đại sứ Orlando Nicolás Hernández Guillén: Giữa hai nền kinh tế có một số lĩnh vực mà đôi bên có thể bổ sung cho nhau. Việt Nam là nước sản xuất lương thực lớn, có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất nông sản - thực phẩm và đó là một trong những lĩnh vực Việt Nam đã và đang giúp đỡ Cuba và có khả năng tăng cường quan hệ, hợp tác.
Ngày nay Việt Nam giúp đỡ, hợp tác với Cuba trong lĩnh vực sản xuất lúa gạo, cà phê, nuôi trồng thủy sản; và ở những lĩnh vực này, có nhiều điều kiện thuận lợi không chỉ cho sự hợp tác song phương mà còn cho sự hiện diện của các doanh nhân Việt Nam tại Cuba để phát triển các dự án kinh tế và thương mại quan trọng, sản xuất lúa gạo, cà phê hoặc các sản phẩm nông nghiệp khác.
Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc phát triển năng lượng sạch. Đó là một trong những mục tiêu lớn của nền kinh tế Việt Nam. Nhưng không còn đơn thuần là mục tiêu nữa, Việt Nam đã có những kết quả và kinh nghiệm quan trọng trong sản xuất điện gió và điện mặt trời; và những thành tựu này - ở quy mô nhỏ hơn, hiển nhiên - là những yếu tố có thể hiện diện trong quan hệ hợp tác song phương giữa Cuba và Việt Nam.
Việt Nam cũng là nền kinh tế xuất khẩu một lượng lớn hàng may mặc, đồ gia dụng và các mặt hàng tương tự khác, đây là những yếu tố hiện diện trong thương mại và hoạt động sản xuất ở Cuba cho thị trường nội địa, du lịch và xuất khẩu sang khu vực. Đồng thời, Cuba đã phát triển ngành dược phẩm hùng mạnh, có trình độ khoa học siêu việt. Bằng chứng là Cuba là một trong số ít quốc gia trên thế giới có thể phát triển vaccine của riêng mình, không chỉ một mà tận ba loại vaccine chống lại COVID-19 rất hiệu quả và đã được xuất khẩu sang một số quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Mặt khác, Cuba đạt đươc thành tựu khoa học và công nghệ quan trọng trong lĩnh vực công nghệ sinh học và công nghiệp dược phẩm. Có rất nhiều cơ hội, như tôi đã nói trước đây, không chỉ cho việc thiết lập mối quan hệ thương mại mà còn cho việc thiết lập các công ty liên doanh tại Việt Nam để sản xuất các sản phẩm dựa trên thành tựu khoa học mà khoa học Cuba đã đạt được.
*Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Đại sứ!