Phát huy giá trị di sản của nghệ sỹ đa tài Văn Cao - cây đại thụ nền văn học, nghệ thuật Việt Nam
Hội thảo khoa học với chủ đề "Thế giới nhạc, họa, thơ của Văn Cao" chào mừng 100 năm Ngày sinh của Văn Cao - người nghệ sỹ đặc biệt đa tài, cây đại thụ của nền văn học, nghệ thuật Việt Nam.
TTXVN - Sáng 8/11, tại Hà Nội, Báo Nhân Dân phối hợp với Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương và Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhạc sỹ Việt Nam, Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề "Thế giới nhạc, họa, thơ của Văn Cao". Sự kiện nhằm chào mừng 100 năm Ngày sinh của Văn Cao - người nghệ sỹ đặc biệt đa tài, cây đại thụ của nền văn học, nghệ thuật Việt Nam (15/11/1923-15/11/2023).
Tổng Biên tập Báo Nhân Dân Lê Quốc Minh; Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương Nguyễn Thế Kỷ; Phó Trưởng ban Ban Tuyên giáo Trung ương Phan Xuân Thủy chủ trì hội thảo. Nhiều nhà văn, nhạc sỹ, họa sỹ, nghệ sỹ, nhà nghiên cứu có tên tuổi, hoặc có thời gian gắn bó với Văn Cao; đại diện gia đình, thân hữu của nhạc sỹ đã đến và đóng góp ý kiến.
Phát biểu đề dẫn, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thế Kỷ, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương khẳng định: Với tài năng đa dạng, độc đáo, nhiều chiều kích, tích hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy, thẩm mỹ, bút pháp; giữa hiện thực đời sống, sự cảm nhận, tri nhận và nghệ thuật biểu đạt; giữa âm nhạc - hội họa - thơ văn, Văn Cao được nhiều người khẳng định là một hiện tượng hết sức đặc biệt, hiếm có trong lịch sử văn nghệ Việt Nam hiện đại. Gọi ông là nghệ sỹ thiên tài cũng không có gì quá lời.
Trước năm 1945, năm 16 tuổi, Văn Cao viết "Buồn tàn thu", rồi các ca khúc lãng mạn, trữ tình như "Bến xuân", "Suối mơ", "Thiên thai", "Trương Chi", "Thu cô liêu", "Cung đàn xưa"… Trong thơ, năm 17 tuổi, ông viết "Một đêm đàn lạnh trên sông Huế", "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc"...; ông viết thơ, viết văn đăng ở Tiểu thuyết thứ Bảy…
Về hội họa, năm 19 tuổi, ông dự học không liên tục ở Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương nhưng năm 20 tuổi ông đã có các bức tranh gây chú ý, như: "Cô gái dậy thì", "Sám hối", "Nửa đêm", nhất là bức tranh "Cuộc khiêu vũ của những người tự tử"… Những bản nhạc của Văn Cao như "Buồn tàn thu", "Suối mơ", "Thiên thai", "Trương Chi"... được in ra đều do ông trình bày bìa và đi rất gần với trường phái lập thể.
Năm 1944, Văn Cao tham gia Việt Minh. Với ca khúc "Tiến quân ca" ra đời cuối năm đó, ông đã có bước chuyển lớn lao từ phong cách lãng mạn, trữ tình và cả hiện thực phê phán sang phong cách cách mạng - kháng chiến cả trong nhạc, họa và thơ.
Từ năm 1945 trở đi, ông viết "Bắc Sơn", rồi các ca khúc, hành khúc như là sự tiên tri kỳ lạ: "Hải quân Việt Nam", 'Không quân Việt Nam", "Công nhân Việt Nam", "Chiến sĩ Việt Nam", tiếp đó là "Làng tôi", "Ngày mùa", "Tiến về Hà Nội", đặc biệt là ca khúc "Ca ngợi Hồ Chủ tịch" và "Trường ca Sông Lô"…
Ngoài ca khúc, sau này ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano, như "Sông Tuyến", "Biển đêm", "Hàng dừa xa"...; sáng tác nhạc phim cho phim truyện "Chị Dậu" (1980), tổ khúc giao hưởng phim tài liệu "Anh bộ đội cụ Hồ" của Xưởng phim Quân đội Nhân dân... Vì nhiều lý do, rất nhiều tác phẩm hội họa của Văn Cao đã không được giữ gìn, thưởng thức và giới thiệu như các tác phẩm âm nhạc, thơ ca của ông, chỉ có thể nêu một số tác phẩm như "Dân công miền núi", "Chợ vùng cao", "Lớn lên trong kháng chiến", "Thái Hà ấp đêm mưa"…
Giai đoạn tiếp theo của Văn Cao, trong âm nhạc là tác phẩm nổi tiếng "Mùa xuân đầu tiên"…; trong hội họa là "Chân dung bà Băng", "Cổng làng", "Phố Nguyễn Du", "Cây đàn đỏ", "Cô gái và đàn dương cầm"… Ông vẽ hàng trăm bìa sách, bức minh họa, đồ họa cho Báo Văn nghệ; với thơ là "Ba biến khúc tuổi 65", "Thời gian", "Phố Phái", "Những bó hoa"… Các bài thơ được tập hợp trong tập "Lá", "Tuyển tập thơ Văn Cao"...
Cuộc đời 72 năm của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với thế kỷ XX nhiều biến động. Trên hành trình cuộc đời ấy, dẫu không ít chông gai, sóng gió, nhọc nhằn nhưng vượt lên tất cả, lối sống khiêm nhường, bình dị, nhẫn nhịn, tình yêu thương, trân trọng con người, cỏ cây, phố xá, làng quê, đất nước đã giúp ông vượt lên nỗi đau, luôn đồng hành cùng dân tộc, nhân dân, sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ.
Bằng tài năng thiên bẩm, sự tự học, tự rèn, đổi mới, sáng tạo, bứt phá, Văn Cao đã cống hiến to lớn cho nền văn hóa, văn nghệ ở cả âm nhạc, thơ ca và hội họa. Ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng Nhất, hạng Ba; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (đợt 1, năm 1996). Tên ông cũng được đặt cho nhiều đường phố ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Đà Nẵng...
Tại hội thảo, các đại biểu thảo luận, đánh giá về phẩm chất, bản lĩnh, tài năng, phong cách nghệ thuật của Văn Cao cũng như đặc điểm, giá trị nội dung, tư tưởng, nghệ thuật, phong cách sáng tác của ông qua các giai đoạn sáng tạo khác nhau. Các đại biểu cũng phân tích, lý giải sâu hơn về thân thế, sự nghiệp, cống hiến, giá trị, di sản văn nghệ lớn lao Văn Cao để lại cho đất nước; đưa ra các kiến nghị nhằm phát huy giá trị di sản văn hóa, văn nghệ quý giá, lớn lao mà ông để lại ở cấp quốc gia...
Dịp này, Báo Nhân Dân đã trao bức tranh khắc đồng bản nhạc bài hát "Mùa xuân đầu tiên" tặng đại diện gia đình nhạc sỹ Văn Cao. Bằng công nghệ, Ban Tổ chức đã phục chế lại thủ bút của nhạc sỹ và đưa vào bức tranh bài hát do chính tay ông viết./.