Dù nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng ký ức cùng cảm xúc ngày nào của các nhân chứng lịch sử vẫn còn nguyên vẹn khi nhắc nhớ về một thời hoa lửa, về những chiến công kỳ vĩ cùng niềm vui chiến thắng
Những ngày này, khi không khí năm mới đã tràn về khắp buôn làng, thôn xóm của tỉnh Đắk Lắk, ký ức về đại thắng mùa Xuân năm 1975, về cái Tết đầu tiên sau đại thắng và nỗi nhớ đồng đội lại ùa về trong tâm trí của những nhân chứng lịch sử, cán bộ lão thành cách mạng. Dù nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng ký ức cùng cảm xúc ngày nào của các nhân chứng lịch sử vẫn còn nguyên vẹn khi nhắc nhớ về một thời hoa lửa, về những chiến công kỳ vĩ cùng niềm vui chiến thắng.
* Mở đường đại thắng
Trong ký ức của nguyên Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk Nguyễn An Vinh, Tết Nguyên đán Ất Mão 1975, trong lực lượng vũ trang và cán bộ dân chính, không khí chuẩn bị cho “trận đánh lớn” rạo rực, ai ai cũng phấn khởi, khí thế sôi sục.
Khi ấy, toàn tỉnh Đắk Lắk có khoảng 3 vạn dân, trong đó vùng căn cứ và vùng giải phóng là nơi trú đóng quân, cơ sở sản xuất, chỗ dựa vững chắc của lực lượng cách mạng có gần 2 vạn dân. Lực lượng vũ trang của tỉnh lúc bấy giờ chủ yếu là dân quân du kích kết hợp tự vệ, một số đơn vị bộ đội địa phương và lực lượng của tỉnh đội. Mặc dù không biết thời điểm nào sẽ đánh, cũng chưa hình dung sẽ đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột, chỉ biết năm 1975 sẽ đánh lớn, quân và dân đã sẵn sàng huy động “sức người, sức của” phục vụ cho trận đánh này. Tết Nguyên đán Ất Mão 1975, anh chị em được ăn Tết sớm. Sau Tết Nguyên đán, khi ấy ông Nguyễn An Vinh là Phó ban Sản xuất của tỉnh đã cùng các lực lượng ráo riết thực hiện nhiệm vụ, tập trung hàng hóa, lực lượng về tập kết tại điểm A10 (huyện Ea Súp ngày nay), hợp lực với lực lượng chi viện của Trung ương để chuẩn bị cho trận đánh lớn.
“Thực hiện kế hoạch nghi binh chiến lược, quân ta đã tài tình thu hút sự chú ý đối phó của địch ở Bắc Tây Nguyên. Đúng 2 giờ 3 phút ngày 10/3/1975, cuộc tấn công như bão lửa vào các mục tiêu then chốt ở Buôn Ma Thuột bắt đầu. Chỉ sau 1 ngày, quân ta đã tấn công và giải phóng, làm chủ được nhiều mục tiêu quan trọng ở thị xã Buôn Ma Thuột. Không quá 5 ngày, với nhiều trận đánh quyết liệt, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc phản kích của địch, cơ bản giải phóng hết thị xã Buôn Ma Thuột từ nội thành đến ngoại thành. Thừa thắng xông lên, quân ta liên tiếp giành chiến thắng, tiến đến hoàn toàn giải phóng tỉnh Đắk Lắk” - ông Nguyễn An Vinh xúc động kể lại.
Nhắc nhớ về những năm tháng hào hùng cùng nỗi nhớ đồng đội, Anh hùng lao động Lê Xuân Bá, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 470 (Bộ Tư lệnh Trường Sơn) cho biết, để chuẩn bị cho nhiệm vụ giải phóng Buôn Ma Thuột, giải phóng miền Nam, Trung đoàn 4 công binh Sư đoàn 470 được giao nhiệm vụ mở đường từ đường 19 (sân bay Đức Cơ, Gia Lai) vào Nam Tây Nguyên, trong đó phải vượt qua 5 con sông, suối lớn. Đối với nhiệm vụ mở đường, khó khăn nhất là đoạn làm phà cho các phương tiện vượt sông Sêrêpốk.
“Lúc bấy giờ, chỉ có sức người và dụng cụ lao động thô sơ là cuốc, xẻng, xà beng. Song với quyết tâm chính trị cao, Trung đoàn đã hạ gỗ ven sông, cưa xẻ thành từng miếng ván. Đinh ghép ván không có nên Trung đoàn cắt cử một tiểu đội vào các đồn địch vừa giải phóng được dọc đường 19 để thu cột dây thép gai về rèn đinh; rồi học cách chát mạch ván từ cây cà bong để nước không vào được thuyền. Anh em đoàn kết khắc phục khó khăn, khẩn trương thi công ngày đêm vì miền Nam ruột thịt. Niềm vui như vỡ òa khi 3 chiếc thuyền có trọng tải 15 tấn/chiếc được đóng thành công, ghép thành bến phà bảo đảm cho mọi phương tiện vượt qua sông như xe tăng, pháo binh, phương tiện chở vũ khí đạn dược và lương thực vào giải phóng miền Nam. Và tại bến phà sông Sêrêpốk cũng là nơi diễn ra các trận chiến đấu ác liệt với địch khiến 57 cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 4 hy sinh và hàng trăm đồng đội bị thương” - Anh hùng lao động Lê Xuân Bá xúc động kể lại.
* Mùa Xuân không quên
Từ chiến thắng Buôn Ma Thuột đã mở màn cho đại thắng mùa Xuân năm 1975 và kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tết Nguyên đán Bính Thìn 1976 là Tết đặc biệt nhất, Tết Độc lập đầu tiên của đất nước sau khi non sông đã thu về một mối, Bắc - Nam sum họp về chung một nhà.
Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk Nguyễn An Vinh chia sẻ, lúc mới giải phóng, tỉnh đối diện với nhiều khó khăn về an ninh trật tự, đời sống nhân dân “đói, đau, lạnh, rách”, các cơ sở hạ tầng ngừng sản xuất trong một thời gian mới phục hồi được. Lúc bấy giờ, tỉnh vận động bà con tương trợ lẫn nhau, người có ăn giúp người không có ăn; mặt khác, tỉnh đi mở các kho gạo, bắp (ngô), bột mì mà ta thu được sau giải phóng để cấp phát, cứu tế cho dân. Đồng thời, tỉnh xây dựng các nông, lâm trường quốc doanh, vận động nhân dân khẩn trương khai hoang, cày cuốc…
“Khó khăn là vậy song nhân dân lúc nào cũng vui như Tết. Tết Nguyên đán Bính Thìn 1976, không khí trong nhân dân phấn khởi lắm. Có thể nói là còn đói, nghèo song sau ngày giải phóng, không khí luôn hừng hực phấn khởi, nhân dân các dân tộc càng thêm tin tưởng và đoàn kết, quyết tâm thực hiện mọi chủ trương và nhiệm vụ dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền cách mạng” - ông Nguyễn An Vinh nhấn mạnh.
Nhớ về Tết cổ truyền năm 1976, ông Y Per Niê, nguyên Đội trưởng đội công tác vũ trang huyện H4 (nay là thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk) tự hào cho biết, trong quá trình hoạt động cách mạng, đội công tác của ông và lực lượng vũ trang đã được công nhân đồn điền Rossi và nhân dân tích cực giúp đỡ, vừa báo tình hình, ủng hộ gạo cho bộ đội, vừa giúp mua hàng hóa. Giải phóng xong, công nhân và nhân dân ai cũng phấn khởi. Bộ đội huy động dân làm thủy lợi buôn Tring để có nước tưới cà phê, tưới ruộng, nhân dân rất tích cực tham gia. Tết Nguyên đán năm đó, cơ quan nào cũng tổ chức Tết, cùng ăn Tết với nhân dân. Mặc dù kinh tế còn khó khăn song tinh thần rất phấn khởi, quân và dân cùng nấu bánh tét, góp thịt, vui vẻ ăn Tết với nhau.
Nhắc nhớ về Tết Nguyên đán đầu tiên sau Đại thắng mùa Xuân 1975, Anh hùng lao động Lê Xuân Bá cho biết, nếu như Tết năm 1975 vẫn đang ở trong rừng, cắt lá dong gói bánh và tăng gia sản xuất để anh em đón Tết thì Tết năm 1976, không khí rất rộn ràng, phấn khởi. Quân và dân tưng bừng, vui vẻ đón Tết, cùng chia ngọt sẻ bùi. Nỗi niềm lúc bấy giờ là tỉnh Đắk Lắk thiếu điện trầm trọng, những người lính "Bộ đội Cụ Hồ" vừa ăn Tết vừa đau đáu nghĩ về những giải pháp phát triển kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên. Và từ niềm đau đáu ấy, sau đó, Đảng, Nhà nước đã đầu tư các công trình lớn, trọng điểm như: Nhà máy thủy điện Dray H’linh, Đường dây 500KV Bắc - Nam, Thủy điện Buôn Kuốp, Thủy điện Sêrêpốk 3… Những công trình ghi dấu ấn về sự góp mặt, tham gia của Sư đoàn 470 Anh hùng và Anh hùng lao động Lê Xuân Bá.
Tết Nguyên đán Bính Thìn 1976 - Tết hòa bình đầu tiên, Tết của sự đoàn tụ, một cái Tết không còn chiến tranh với khói lửa đạn bom. Quá khứ hiện lên qua những câu chuyện kể, qua mạch nguồn ký ức của những người đã từng “vào sinh ra tử” rất đỗi sống động và tự hào, để thế hệ trẻ ngày nay càng thấm thía, trân quý hơn giá trị của hòa bình, độc lập, tự do và xin nghiêng mình trước những chiến công cùng sự hy sinh cao cả của các thế hệ ông cha đi trước./.