Trưởng ban Kinh tế Trung ương: Khai thác lợi thế, bổ sung nguồn lực để phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng
Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh chia sẻ về sự cần thiết ban hành Nghị quyết tạo đột phá để phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Hồng.
(TTXVN) Sáng 29/11, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Nhân dịp này, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh đã trả lời phỏng vấn báo chí về sự cần thiết ban hành Nghị quyết cũng như những điểm trọng tâm có tính đột phá để phát triển kinh tế - xã hội vùng này trong thời gian tới.
- Xin đồng chí cho biết sự cần thiết phải ban hành Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng?
Đồng chí Trần Tuấn Anh: Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị được ban hành là hết sức cần thiết trong bối cảnh, tình hình mới tác động đến phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng và các địa phương trong vùng, thể hiện ở một số mặt sau:
Một là, Nghị quyết số 30-NQ/TW thể hiện được sự quan tâm đặc biệt và quyết tâm của Đảng, Nhà nước nhằm phát triển nhanh, bền vững vùng Đồng bằng sông Hồng. Bởi vì vùng là địa bàn có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng với cả nước; có nhiều tiềm năng, lợi thế vượt trội; nơi kết tinh, hội tụ tinh hoa văn hóa, có lịch sử mấy ngàn năm gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc; có Thủ đô Hà Nội - trái tim của cả nước. Nghị quyết số 30-NQ/TW ban hành nhằm tiếp tục phát huy vai trò của vùng Đồng bằng sông Hồng là vùng động lực phát triển hàng đầu để định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước.
Hai là, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đặt ra với vùng, nguyện vọng của các Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong vùng. Kết quả sau 18 năm thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW của vùng là khá toàn diện nhưng quá trình phát triển vùng cũng bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế và nhiều thách thức mới. Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành nhằm cổ vũ, động viên và phát huy các kết quả, thành tựu đã đạt được; khắc phục các tồn tại, hạn chế đang phát sinh; tận dụng các cơ hội, thuận lợi mới từ bối cảnh, tình hình mới đến phát triển vùng và các địa phương trong vùng.
Ba là, trong bối cảnh cơ chế, chính sách phát triển vùng và cả nước còn nhiều bất cập, hạn chế, Nghị quyết số 30-NQ/TW sẽ là cơ sở, căn cứ chính trị quan trọng để các bộ, ngành và các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Hồng ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù để khai thác tốt hơn nữa các tiềm năng, lợi thế, điều chỉnh, bổ sung nguồn lực để tiếp tục phát triển vùng và các địa phương thời gian tới.
- Thưa đồng chí, Nghị quyết số 30-NQ/TW về vùng Đồng bằng sông Hồng có rất nhiểu điểm mới. Theo đồng chí, đâu là những điểm trọng tâm có tính đột phá để phát triển kinh tế - xã hội vùng này trong thời gian tới?
Đồng chí Trần Tuấn Anh: Nghị quyết số 30-NQ/TW là sản phẩm kết tinh từ trí tuệ tập thể, là kết quả tổng hợp từ các Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW của 11 địa phương trong vùng và 20 bộ, ngành. Có thể nói, Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị rất toàn diện, định hướng phát triển vùng thời gian tới. Nghị quyết số 30-NQ/TW đã đề ra những giải pháp trọng tâm, đột phá sau:
Thứ nhất, đặt phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng trong Chiến lược phát triển chung của cả nước. Phát triển vùng phải phù hợp với các Chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực lớn của cả nước và thống nhất với hệ thống quy hoạch quốc gia. Nghị quyết đòi hỏi các ngành, các cấp cần nhận thức đúng đắn hơn về vị trí, tầm quan trọng của vùng và liên kết phát triển vùng; hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng mang tính đột phá; nghiên cứu, xây dựng thể chế điều phối đủ mạnh với quyết tâm chính trị cao để bảo đảm hiệu quả điều phối, liên kết phát triển vùng, nhất là quy hoạch, phát triển hạ tầng, xúc tiến đầu tư, xử lý môi trường liên tỉnh, phát triển các cụm liên kết ngành.
Thứ hai, đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng năng suất lao động và đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) với các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn... Phát triển nhanh, bền vững vùng với cơ cấu kinh tế hiện đại để định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước dựa vào 3 động lực chính là: Tập trung đầu tư để vùng trở thành trung tâm khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số hàng đầu của cả nước; Phát triển hệ thống đô thị tăng trưởng xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tiếp tục phát huy vai trò là trung tâm của cả nước trong đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao.
Thứ ba, huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là đất đai và nguồn nhân lực; hình thành một số khu vực đóng vai trò các cực tăng trưởng. Khai thác tốt nhất các thế mạnh về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa chính trị, giá trị văn hóa, truyền thống lịch sử. Thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn, ít phát thải khí nhà kính, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững theo cam kết tại Hội nghị COP26.
Thứ tư, phát triển văn hóa làm nền tảng và là sức mạnh nội sinh quan trọng, hướng tới chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức sáng tạo, tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển phồn vinh. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển du lịch; gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa và không gian, kiến trúc văn hóa vùng đồng bằng Bắc Bộ; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới.
Thứ năm, tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phát triển chính quyền điện tử, hướng đến chính quyền số, kinh tế số và xã hội số. Tăng cường phân cấp, phân quyền trong các lĩnh vực đầu tư, tài chính, quy hoạch, đất đai, môi trường và tổ chức bộ máy gắn với kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực.
- Trân trọng cảm ơn đồng chí.